Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh giới thiệu những cuốn sách của nhà sư, nhà văn, nhà thơ Thích Nhất Hạnh. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng cho Phật giáo.

 · 179 phút đọc.

Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh giới thiệu những cuốn sách của nhà sư, nhà văn, nhà thơ Thích Nhất Hạnh. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng cho Phật giáo.

Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh giới thiệu những cuốn sách của nhà sư, nhà văn, nhà thơ Thích Nhất Hạnh. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng cho Phật giáo.

Giới thiệu thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

tuyen-tap-sach-cua-thien-su-thich-nhat-hanh

tuyen-tap-sach-cua-thien-su-thich-nhat-hanh

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà sư, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội và hòa bình nổi tiếng trên thế giới. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân. Ông cũng là người đưa ra khái niệm chánh niệm, một phương pháp tu tập và sống đời giúp con người tĩnh tâm, hạnh phúc và hòa hợp với bản thân, với mọi người và với thiên nhiên.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926 tại Huế, tên khai sinh là Nguyễn Xuân Bảo. Ông xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949, và qua đời vào ngày 22 tháng 1 năm 2022 tại Huế, ở tuổi 95.

Ông đã học và giảng dạy Phật giáo tại Việt Nam, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pháp và nhiều nước khác. Ông cũng đã tham gia vào các hoạt động vận động cho hòa bình, đối thoại liên tôn giáo và bảo vệ môi trường. Năm 1967, ông được Martin Luther King Jr. đề cử cho giải Nobel Hòa Bình. Ông đã viết hơn 100 cuốn sách, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng như Bước Đường Hạnh Phúc, Không Có Ngày Mai, Sống Chậm, Sống Thật, Những Bông Hoa Trong Lửa và nhiều tác phẩm thơ như Tình Yêu Là Một Nghệ Thuật, Những Bài Thơ Về Chánh Niệm và Những Bài Thơ Về Tự Do…

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một người có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của Phật giáo phương Tây. Ông đã giúp nhiều người hiểu và thực hành Phật giáo một cách đơn giản, thiết thực và hiện đại. Ông cũng đã góp phần xây dựng một nền văn hóa hòa bình, từ bi và trách nhiệm. Ông đã được nhiều tờ báo và tạp chí đánh giá là một trong những nhà lãnh đạo tinh thần quan trọng nhất của thế kỷ 20 và 21.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã qua đời vào ngày 22 tháng 1 năm 2022 tại Huế, ở tuổi 95. Ông đã để lại cho thế giới một di sản tinh thần vô giá, một nguồn cảm hứng và một lời dạy về sự sống an lạc và hạnh phúc. Ông đã nói: Chúng ta không cần phải chờ đợi cho đến khi chết để thấy Phật. Chúng ta có thể thấy Phật trong mỗi hơi thở, trong mỗi bước chân, trong mỗi nụ cười, trong mỗi ánh mắt. Chúng ta có thể thấy Phật trong mỗi người, trong mỗi sinh vật, trong mỗi hạt cát. Chúng ta có thể thấy Phật trong mỗi khoảnh khắc của cuộc đời.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã phối hợp kiến thức của ông về nhiều trường phái thiền khác nhau cùng với các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, những nhận thức sâu sắc từ truyền thống Phật Giáo Đại thừa, và một số phát kiến của ngành tâm lý học đương đại phương Tây để tạo thành cách tiếp cận mới đối với thiền.

Ông là người đưa ra khái niệm Phật giáo dấn thân trong cuốn Việt Nam: Hoa sen trong biển lửa. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo John Malkin hơn một thập niên trước, thiền sư Thích Nhất Hạnh giải thích về Phật giáo dấn thân: Khi bom dội lên đầu chúng sinh, bạn không thể ngồi trong thiền viện. Thiền là nhận thức về những gì đang xảy ra, không chỉ bên trong mà còn xung quanh cơ thể và cảm xúc của bạn.

Phật giáo phải gắn liền với cuộc sống thường nhật, với nỗi đau của bạn và những người xung quanh. Bạn phải học cách giúp đỡ một đứa trẻ bị thương trong lúc duy trì hơi thở chánh niệm. Bạn phải giữ cho bản thân khỏi lạc lối trong hành động. Hành động phải đi cùng thiền, ông nhấn mạnh.

Năm 1956, ông làm Tổng biên tập của Phật giáo Việt Nam, tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thập niên 1960, ông lập nên trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (SYSS), một tổ chức từ thiện giúp dựng lại các làng bị đánh bom, xây trường học, trạm xá, và hỗ trợ những gia đình vô gia cư sau chiến tranh ở Việt Nam.

Ông cũng là một trong những người thành lập Đại học Vạn Hạnh, trường tư thục danh tiếng, tập trung nhiều nhà nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4/1965, đoàn sinh viên trường Vạn Hạnh đưa ra lời kêu gọi vì hoà bình, với nội dung chính là thúc giục hai miền Nam – Bắc tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho người dân Việt Nam cuộc sống hòa bình với lòng tôn trọng lẫn nhau.

Thiền sư Thích Nhất hạnh đã nhiều lần đến Mỹ để nghiên cứu và diễn thuyết tại Đại học Princeton và Đại học Cornell. Sau này, ông tham gia giảng dạy tại Đại học Columbia. Tuy nhiên, mục đích chính của những chuyến đi ra nước ngoài của ông vẫn là vận động cho hòa bình.

Năm 1966, ông lập ra dòng tu Tiếp Hiện đồng thời thành lập nhiều trung tâm thực hành và thiền viện trên khắp thế giới. Ông ở nước ngoài từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, cư ngụ chủ yếu tại Tu viện Làng Mai, vùng Dordogne, miền nam nước Pháp.

Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây, những lời dạy và phương pháp của thiền sư Thích Nhất Hạnh thu hút sự quan tâm của nhiều thành phần đến từ các quan điểm tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Ông đưa ra cách thực hành chánh niệm thường được điều chỉnh cho phù hợp với tri giác phương Tây.

Chánh niệm là sự biết rõ những gì đang có mặt, đang xảy ra. Khi nắm tay một em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào bàn tay em. Khi ôm người thương trong vòng tay cũng thế. Hãy thực sự có mặt, thực sự tỉnh thức. Điều này trái ngược hẳn với cách sống và làm việc của ta trước đây. Chúng ta từng có thói quen làm nhiều việc cùng một lúc. Vừa trả lời e–mail vừa nói điện thoại. Trong khi đang họp về một dự án này, ta viết xuống những ghi chú cho một dự án khác. Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc, Thiền sư viết trong cuốn sách Quyền lực đích thực. Ông cho rằng thực hành Chánh niệm giúp nhận diện niềm đau nỗi khổ và chuyển hóa chúng.

Ông đã viết hơn 100 cuốn sách, trong đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh, với một số tác phẩm nổi bật như Đường xưa mây trắng, Phép lạ của sự tỉnh thức, Hạnh phúc cầm tay, Phật trong ta, Chúa trong ta…

Cuộc đời ông gắn liền với các hoạt động vì hòa bình. Tháng 6/1965, Thiền sư viết thư cho nhà hoạt động nổi tiếng Mỹ Martin Luther King Jr. để kêu gọi ông công khai chống lại Chiến tranh Việt Nam. Một năm sau, hai người lần đầu tiên gặp nhau tại Chicago, thảo luận về hòa bình, tự do và cộng đồng. Trong cuộc họp báo sau đó, King đã phản đối mạnh mẽ Chiến tranh Việt Nam. Năm 1967, King đề cử Thiền sư cho Giải Nobel Hòa bình nhưng năm đó không ai được trao giải.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho biết khi ông đã không thể tin nổi khi nghe tin King bị ám sát vào năm 1968. Tôi nghĩ người Mỹ đã tạo ra King nhưng lại không bảo vệ được ông ấy. Tôi có chút tức giận vào thời điểm đó. Tôi không ăn, không ngủ. Nhưng quyết tâm làm việc, xây dựng cộng đồng vẫn tiếp tục.

Ông tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine, khuyến khích họ lắng nghe và học hỏi lẫn nhau; thuyết giảng kêu gọi các nước đang tham chiến hãy đình chiến và tìm kiếm giải pháp ôn hòa cho các mâu thuẫn. Năm 2005, ông tổ chức buổi diễu hành vì hòa bình ở Los Angeles với sự tham gia của hàng nghìn người, theo Christian Science Monitor.

Tháng 5/2013, trong một buổi diễn thuyết kéo dài 3 giờ tại sân vận động ở Hàn Quốc, Thiền sư đã bàn về mối quan hệ giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. Vũ khí hạt nhân là một trở ngại đối với mối quan hệ tốt đẹp giữa hai miền bán đảo Triều Tiên. Nó phản ánh nỗi sợ hãi, tức giận và nghi ngờ của Triều Tiên bởi nếu không, họ đã không xây dựng vũ khí hạt nhân. Vì hòa bình, điều cơ bản cần làm không phải việc loại bỏ vũ khí hạt nhân mà là loại bỏ sự sợ hãi, tức giận và nghi ngờ trong mỗi người. Qua đó, việc hòa giải sẽ trở nên dễ dàng.

Theo thiền sư Thích Nhất Hạnh, chìa khóa để hòa giải chính là việc biết lắng nghe. Ông cũng khuyên các chính trị gia nên học theo con đường của Phật giáo để giúp ích cho đàm phán và hòa giải.

Sau hơn 4 thập niên rời xa quê hương, ông về Việt Nam lần đầu vào năm 2005 và năm 2007, ông đi khắp đất nước, tổ chức những khóa tu, buổi pháp thoại và gặp gỡ các tăng ni phật tử. Đầu năm 2007, với sự đồng ý của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ông tổ chức ba trai đàn chẩn tế lớn tại ba miền Việt Nam với tên gọi Đại trai đàn Chẩn tế Giải oan, cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho những người từng chịu hậu quả của chiến tranh.

Tại Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc tại Hà Nội, ông được mời về Việt Nam với tư cách là người thuyết trình chủ đề chính. Năm 2014, Thiền sư trải qua quá trình hôn mê do xuất huyết não. Sau khi phục hồi, Thiền sư năm 2016 từ Pháp đến tính dưỡng ở Trung tâm tu học Làng Mai ở Thái Lan để được gần quê hương hơn. Năm 2017, ông một lần nữa trở lại Việt Nam và thăm chùa Từ Hiếu.

Với những hoạt động không ngừng nghỉ của mình, thiền sư Thích Nhất Hạnh trở thành nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây, chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma, AP đánh giá trong một bài viết ra năm 2009. Huffington Post hồi cuối năm 2012 gọi thiền sư Thích Nhất Hạnh là con người điềm đạm nhất thế giới.

Oprah Winfrey, người dẫn chương trình truyền hình Mỹ từng có cuộc phỏng vấn ông năm 2009, ca ngợi những chỉ giảng của ông có tác dụng truyền cảm hứng cho mọi người. Con người luôn gặp khó khăn trong việc buông bỏ đau khổ. Với nỗi sợ hãi về những điều bất định, họ chọn chịu đau khổ trong những thứ quen thuộc, bà chia sẻ một câu nói.

Tầm ảnh hưởng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh qua những cuốn sách

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà sư, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội và hòa bình nổi tiếng trên thế giới. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân. Ông cũng là người đưa ra khái niệm chánh niệm, một phương pháp tu tập và sống đời giúp con người tĩnh tâm, hạnh phúc và hòa hợp với bản thân, với mọi người và với thiên nhiên.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng như Bước Đường Hạnh Phúc, Không Có Ngày Mai, Sống Chậm, Sống Thật, Những Bông Hoa Trong Lửa và nhiều tác phẩm thơ như Tình Yêu Là Một Nghệ Thuật, Những Bài Thơ Về Chánh Niệm và Những Bài Thơ Về Tự Do. Những cuốn sách của ông không chỉ là những tác phẩm văn học, mà còn là những tài liệu hướng dẫn, khuyến khích và truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới.

Các cuốn sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh được coi là cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân vì ông đã áp dụng những tuệ giác mình đạt được từ những lời dạy của đức Phật và từ thiền quán để làm vơi bớt những khổ đau trong xã hội, trong môi sinh và trong chính trường. Ông đã chỉ ra cách thức sống chánh niệm, từ bi, hòa bình và trách nhiệm trong cuộc sống hàng ngày. Ông cũng đã tham gia vào nhiều hoạt động vận động cho hòa bình, đối thoại liên tôn giáo và bảo vệ môi trường. Những cuốn sách của ông đã thu hút sự quan tâm của nhiều người trên khắp thế giới, đặc biệt là ở các nước Âu – Mỹ, và góp phần xây dựng một nền văn hóa hòa bình, từ bi và trách nhiệm.

Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Giận

Đọc sách Giận tại đây.

Đọc sách Giận tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Giận là một cuốn sách hay của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nó mở ra cho ta những khả năng kỳ diệu, nhưng lại rất dễ thực hành để ta tự mình từng bước thoát khỏi cơn giận và sống đẹp với xã hội quanh mình.

Giận được xuất bản tại Hoa Kỳ ngày 10.9.2001, trước biến cố 11.9.2001 có một ngày. Vì thế Giận đã trở thành quyển sách bán chạy nhất Hoa Kỳ – 50.000 bản mỗi tuần – trong vòng 9 tháng.

Tại Hàn Quốc, quyển sách này đã bán được 1 triệu bản trong vòng 11 tháng. Rất nhiều độc giả nhờ đọc sách này mà đã điều phục được tâm mình, sử dụng ái ngữ lắng nghe để hoà giải với người thân, đem lại hạnh phúc trong gia đình và trong cộng đồng của họ.

Khi ta giận, khi một ai đó làm cho ta giận, ta phải trở về với thân tâm và chăm sóc cơn giận của mình. Không nên nói gì hết. Không nên làm gì hết. Khi đang giận mà nói năng hay hành động thì chỉ gây thêm đổ vỡ mà thôư thế là không khôn ngoan. Phải trở về dập tắt lửa trước đã.

Không diệt không sinh, đừng sợ hãi

Đọc sách Không diệt không sinh, đừng sợ hãi tại đây.

Đọc sách Không diệt không sinh, đừng sợ hãi tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Nhiều người trong chúng ta tin rằng cuộc đời của ta bắt đầu từ lúc chào đời và kết thúc khi ta chết. Chúng ta tin rằng chúng ta tới từ cái Không, nên khi chết chúng ta cũng không còn lại gì hết. Và chúng ta lo lắng vì sẽ trở thành hư vô.

Bụt có cái hiểu rất khác về cuộc đời. Ngài hiểu rằng sống và chết chỉ là những ý niệm không có thực. Coi đó là sự thực, chính là nguyên do gây cho chúng ta khổ não. Bụt dạy không có sinh, không có diệt, không tới cũng không đi, không giống nhau cũng không khác nhau, không có cái ngã thường hằng cũng không có hư vô. Chúng ta thì coi là Có hết mọi thứ. Khi chúng ta hiểu rằng mình không bị hủy diệt thì chúng ta không còn lo sợ. Đó là sự giải thoát. Chúng ta có thể an hưởng và thưởng thức đời sống một cách mới mẻ.

Không diệt Không sinh Đừng sợ hãi là tựa sách được Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết nên dựa trên kinh nghiệm của chính mình. Ở đó, Thầy Nhất Hạnh đã đưa ra một thay thế đáng ngạc nhiên cho hai triết lý trái ngược nhau về vĩnh cửu và hư không: Tự muôn đời tôi vẫn tự do. Tử sinh chỉ là cửa ngõ ra vào, tử sinh là trò chơi cút bắt. Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệtNỗi khổ lớn nhất của chúng ta là ý niệm về đến–đi, lui–tới.

Được lặp đi lặp lại nhiều lần, Thầy khuyên chúng ta thực tập nhìn sâu để chúng ta hiểu được và tự mình nếm được sự tự do của con đường chính giữa, không bị kẹt vào cả hai ý niệm của vĩnh cửu và hư không. Là một thi sĩ nên khi giải thích về các sự trái ngược trong đời sống, Thầy đã nhẹ nhàng vén bức màn vô minh ảo tưởng dùm chúng ta, cho phép chúng ta (có lẽ lần đầu tiên trong đời) được biết rằng sự kinh hoàng về cái chết chỉ có nguyên nhân là các ý niệm và hiểu biết sai lầm của chính mình mà thôi.

Tri kiến về sống, chết của Thầy vô cùng vi tế và đẹp đẽ. Cũng như những điều vi tế, đẹp đẽ khác, cách thưởng thức hay nhất là thiền quán trong thinh lặng. Lòng nhân hậu và từ bi phát xuất từ suối nguồn thâm tuệ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một loại thuốc chữa lành những vết thương trong trái tim chúng ta.

Tĩnh lặng

Đọc sách Tĩnh lặng tại đây.

Mua sách Tĩnh lặng tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Còn sống và bước đi trên mặt đất này là một phép lạ, nhưng hầu hết chúng ta lại chạy đi tìm hạnh phúc ở một nơi xa xôi nào đó như thể là có một nơi tốt đẹp hơn để đến vậy.

Chúng ta mất rất nhiều thời gian để đi tìm hạnh phúc trong khi đó thế giới quanh ta tràn đầy những mầu nhiệm. Những vẻ đẹp của đất trời đang gọi ta từng ngày, từng giờ nhưng hiếm khi ta nghe được.

Điều kiện căn bản để chúng ta có thể nghe và đáp lại những tiếng gọi ấy là sự Tĩnh Lặng. Nếu không có sự tĩnh lặng trong tự thân, nếu thân tâm ta đầy sự ồn ào, náo loạn thì ta không thể nghe được tiếng gọi của vẻ đẹp ấy. Có một đài radio đang hoạt động trong đầu ta, đó là đài NST (Non Stop Thinking) – đài suy nghĩ liên tục không ngừng.

Tâm ta đầy tiếng ồn vì vậy ta không thể nghe được tiếng gọi của sự sống, tiếng gọi của tình thương. Trái tim ta đang gọi ta mà ta không nghe thấy. Ta không có thời gian để lắng nghe trái tim mình.

Chánh niệm là sự thực tập làm cho những tiếng ồn trong mình yên lắng lại. Không có chánh niệm, chúng ta có thể bị nhiều thứ lôi kéo, chẳng hạn như những tiếc nuối, buồn phiền trong quá khứ. Ta hồi tưởng lại những ký ức, hồi tưởng lại những gì đã trải qua, để khổ đi khổ lại, để đau đi đau lại những niềm đau mà ta đã đi qua. Chúng ta rất dễ bị kẹt vào ngục tù của quá khứ. Chúng ta cũng có thể bị tương lai lôi kéo. Những người lo lắng, sợ hãi về tương lai cũng bị giam hãm trong tù ngục như những người bị quá khứ trói buộc. Sợ hãi, lo lắng, hoang mang ngăn cản ta, không cho ta nghe được tiếng gọi của hạnh phúc. Vì vậy, tương lai cũng trở thành ngục tù.

Dù ta cố gắng có mặt trong giây phút hiện tại thì tâm ta cũng tán loạn và thấy trống vắng như có một khoảng trống lớn trong ta vậy. Có thể ta chờ đợi, trông mong điều gì đó xảy ra cho cuộc sống của ta hào hứng hơn, sôi nổi hơn. Ta trông chờ điều gì đó có thể thay đổi hoàn cảnh của ta, vì cuộc sống hiện tại của ta quá chán nản, chẳng có gì đặc biệt và thú vị.

Chánh niệm thường được mô tả như một tiếng chuông nhắc nhở chúng ta dừng lại và im lặng lắng nghe. Chúng ta có thể sử dụng tiếng chuông hay bất kỳ một tín hiệu nào giúp ta nhớ để không bị kéo đi bởi những tiếng ồn chung quanh và tiếng ồn trong mình. Khi nghe chuông, ta dừng lại, theo dõi hơi thở vào ra và tạo không gian cho sự yên lặng. Ta có thể tự nói với mình: Thở vào tôi biết là tôi đang thở vào.

Thở vào, thở ra trong chánh niệm, chỉ chú ý vào hơi thở, ta có thể làm yên lắng tất cả những tiếng ồn trong mình, những tiếng độc thoại về quá khứ, tương lai hay những mong cầu về điều gì đó.

Chỉ cần thở chánh niệm trong vòng hai, ba giây thôi là ta đã thức tỉnh, rằng ta còn sống và ta đang thở vào. Ta có mặt đây, ta đang tồn tại. Tiếng ồn bên trong sẽ biến mất ngay lập tức, nhường chỗ cho một không gian bao la và sâu rộng. Rất hùng hồn và mạnh mẽ. Ta có thể đáp lại tiếng gọi của những vẻ đẹp chung quanh ta:

Tôi đang có mặt đây, tôi đang có tự do và đang nghe em đây.

Tôi đang có mặt đây nghĩa là gì? Nghĩa là _Tôi đang sống. Tôi đang thật sự có mặt, bởi vì tôi không bị đánh mất mình trong quá khứ, trong tương lai, trong suy nghĩ, trong những tiếng ồn bên trong cũng như tiếng ồn bên ngoài.

Tôi đang có mặt._ Để thực sự có mặt, ta phải có tự do, vượt thoát những suy nghĩ, vượt thoát những lo lắng, vượt thoát những sợ hãi và mong cầu. Tôi đang có tự do là một lời tuyên bố rất hùng hồn, bởi vì sự thật là nhiều người trong chúng ta không có tự do. Ta không có tự do để nghe, để thấy và để có mặt.

Tìm bình yên trong gia đình

Đọc sách Tìm bình yên trong gia đình tại đây.

Mua sách Tìm bình yên trong gia đình tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Tìm bình yên trong gia đình cuốn sách của Sư ông Làng Mai Thích Nhất Hạnh là tập hợp nhiều câu hỏi vấn đáp của quý Phật tử, mọi người ở khắp nơi gửi về cho Sư ông để giải đáp những vấn đề xoay quanh các mối quan hệ trong gia đình, giữa vợ với chồng, cha mẹ với con cái và cả cách vượt qua nỗi đau khi mất đi người thân…

Quay về nương tựa

Hải đảo tự thân

Chánh niệm là Bụt

soi sáng xa gần,

Hơi thở là pháp,

Bảo hộ thân tâm,

Năm uẩn là tăng,

Phối hợp tinh cần,

Thở vào, thở ra,

Là hoa tươi mát,

Là núi vững vàng,

Nước tĩnh lặng chiếu,

Không gian thênh thang.

Cuộc đời là một chuỗi tương quan tương duyên. Không có một hiện hữu nào tự nó có được. Một bông hoa, không thể tự nó mà hình thành. Hoa phải nhờ những yếu tố khác như đất, nước, hạt giống, phân bón, người làm vườn… mới hình thành. Mình cũng vậy, cũng do nhiều yếu tố kết hợp, như cha mẹ, thức ăn, nước uống, môi trường, xã hội… Hạnh phúc và khổ đau cũng như thế, cũng do nhiều yếu tố tạo thành. Những yếu tố tương quan tương duyên đó dân gian gọi nôm na là duyên nợ, những gì đem lại hạnh phúc cho mình thì gọi là duyên, những gì đem lại khổ đau thì gọi là nợ. Đạo Bụt gọi đó là tương quan tương duyên hay tương tức. Cũng cùng một người nhưng khi thương thì gọi là mình có duyên với người đó. Rồi cũng người ấy, cũng tình thương ấy nhưng vì mình không biết trân quý và tưới tẩm để cho tình thương lớn lên để rồi khổ đau, thì lại gọi là mình có nợ với người ấy. Như thế thì vô lý và mâu thuẫn quá phải không?

Mình đâu chọn nhầm người, mình đâu cưới người mình ghét, mình cưới người mình thương mà. Chỉ do mình không biết nuôi dưỡng thôi. Nếu nhìn sâu vào những khổ đau và hạnh phúc của mình, mình sẽ thấy được nguyên nhân và gốc rễ sâu xa của nó. Khi thấy được nguyên nhân và gốc rễ rồi, mình sẽ làm mới trở lại để nuôi lấy hạnh phúc của mình, không còn đổ lỗi cho duyên nợ nữa. Nếu nhìn sâu thêm một tí mình có thể thấy được rằng khuynh hướng đổ lỗi cũng là một tập khí của mình. Trong mối quan hệ giữa mình với người kia, có lúc mình giận hờn, khổ đau, mình cứ nghĩ là người kia có lỗi với mình, người kia đã gây nên những nỗi khổ đau cho mình nên mình không chấp nhận được người kia và làm cho sự truyền thông trở nên bế tắc. Khổ đau từ đó mà leo thang. Mình không nhìn lại để thấy rằng có thể mình đã đóng góp một phần nào đó trong nỗi khổ và cơn giận của người kia, nên người kia đã hành xử và nói năng như vậy. Có thể mình không đủ cảm thông, có thể mình không đủ niềm vui và hạnh phúc để hiến tặng cho người kia, có thể mình không tưới tẩm những hạt giống tốt trong người kia, mà chỉ có than phiền và trách móc. Hoặc trong mình còn có những nóng nảy, dễ bực bội cáu gắt, không dễ dàng tha thứ bỏ qua những lỗi lầm của người khác. Mình đã không nói những lời nói nhẹ nhàng ái ngữ, không hành xử khéo léo … Khổ đau hay hạnh phúc đều mang tính hữu cơ, nghĩa là có thể chuyển đổi được. Hạnh phúc nếu không khéo gìn giữ thì một ngày nào đó sẽ mất, sẽ trở thành khó khăn và khổ đau. Nếu khổ đau mà biết tu tập chuyển hóa thì sẽ thương yêu nhau hơn, từ đó sẽ hạnh phúc hơn. Cho nên khổ đau hay hạnh phúc là do mình, do mình quyết định. Mình có đổ lỗi cho người kia, cho hoàn cảnh, môi trường, con cái… thì đó cũng là tập khí của mình. Sự thực tập là luôn luôn trở về để nhìn lại chính mình. Có thể mình không trân quý đủ người thương của mình, mình không trân quý đủ những gì mình đang có. Những gì mình không có hoặc chưa có thì mình ruổi rong tìm kiếm, khi có rồi thì mình lại không biết trân quý, đợi đến khi tuột khỏi tầm tay mới thấy tiếc nuối và ân hận.

Nếu mình không thay đổi những tập khí của mình thì cho dù có cưới bao nhiêu người đi nữa mình cũng khổ đau. Vì vậy, cùng với sự thực tập, mình luôn luôn trở về với giây phút hiện tại, nhận diện và trân quý những gì mình đang có để nuôi lớn hạnh phúc, và đồng thời chuyển hóa những tập khí trong mình.

Con đã có đường đi

Đọc sách Con đã có đường đi tại đây.

Mua sách Con đã có đường đi tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Mọi sinh hoạt của xã hội con người đang đi về hướng toàn cầu hóa. Những giá trị tâm linh và đạo đức nào trong gia sản văn hóa của nhân loại cần được xét nghiệm và nhận diện để chúng ta có thể sử dụng mà hình thành nên một nền đạo đức và tâm linh chung cho cả hành tinh chúng ta? Mỗi truyền thống đạo đức tâm linh đều có những viên ngọc quý có thể đem ra để đóng góp cho một nền tâm linh và đạo đức toàn cầu. Đạo Bụt là một nguồn tuệ giác đã có mặt trên 2500 năm có thể đóng góp được gì? Đó là chủ đề của cuốn sách này.

Bất cứ một nền đạo đức luân lý nào cũng luôn dựa trên nền tảng của một cái thấy sâu sắc về thực tại, thực tại nội tâm cũng như thực tại thế giới. Siêu hình học là nền tảng của đạo đức học. Đạo đức học của đạo Bụt phát sinh từ một suối nguồn tuệ giác mà Bụt Thích Ca và các hành giả kế tiếp đã đạt tới được nhờ kinh nghiệm thiền quán sâu sắc. Nguồn suối tuệ giác ấy được gọi là Chánh kiến (Right View), là sự chứng ngộ. Tuệ giác ấy có khi được gọi là Duyên Sinh, là Tương Tức, là Không, là Vô Tướng, là Bát Nhã, là Bất Nhị, là Trung Đạo, là Vô Ngã… Tuệ giác ấy không phải là những ý niệm, những lý thuyết hình thành bởi tư duy, bởi lý luận mà là những kinh nghiệm trực tiếp về thực tại mà hành giả đạt tới. Chỉ có người ăn xoài mới thực sự chứng nghiệm được hương vị của trái xoài, và kinh nghiệm này không thể trao truyền được cho kẻ khác, những người chưa bao giờ được ăn xoài, bằng ngôn ngữ và ý niệm. Siêu hình học, nếu chỉ là sản phẩm của trí năng, lý luận và kiến thức khái niệm, thì không đủ để làm nền tảng cho một nền luân lý đạo đức có giá trị thực tiễn.

Cuốn sách này trình bày và giới thiệu nền tuệ giác ấy cũng như những hình thái đẹp đẽ của nền đạo đức luân lý được phát nguồn từ nền tuệ giác ấy. Nếu biết cách tu tập và quán chiếu thì bạn đọc cũng có thể nương vào đó để đạt tới kinh nghiệm tâm linh và nguồn suối tuệ giác ấy một cách trực tiếp, như người không mãn ý với những ý niệm về hương vị của trái xoài mà muốn trực tiếp ăn xoài.

Hạnh phúc cầm tay

Đọc sách Hạnh phúc cầm tay tại đây.

Đọc sách Hạnh phúc cầm tay tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Cuộc sống quanh ta đầy màu nhiệm, chánh niệm là trái tim của thiền tập, là nguồn năng lượng xuyên suốt không thể thay đổi. Một người sống trong chánh niệm, tâm an, sẽ khiến những người xung quanh vui vẻ, an nhiên và thậm chí thay đổi cả xã hội.

Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niệm và định.

Định làm phát sinh hỷ lạc.

Định nguồn căn, có định con người sẽ cảm thấy đang thực sự sống chứ không phải chỉ tồn tại. Cảm nhận cuộc đời tươi đẹp không qua đôi mắt mà qua hơi thở và tâm hồn.

Thiền sư Lâm Tế đã nói rằng:

Phép lạ là đi trên mặt đất mà không phải đi trên mặt nước hay đi trên than hồng.

Tất cả những gì ta làm đều cốt yếu là để tâm an. Mỗi ngày, ta đì tìm tự do cho hạnh phúc, hay hạnh phúc để được tự do?! Nếu cứ mải mê mắc kẹt trong quá khứ và lo buồn về tương lai, hiện tại sẽ tự nhiên ngả màu héo úa.

Nghỉ ngơi là bước đầu tiên của thiền tập, và con đường ngắn nhất là thả lỏng và không gượng ép. Sống là để không uổng phí một đời, sống trọn vẹn từng giây phút, thanh thản từng hành động.

Bước đi một cách thoải mái, an lạc, đi như không đi sẽ không thấy mệt mỏi. Sự cố gượng là không cần thiết nếu ta hiểu được rằng mỗi bước đi là mỗi bước được tiếp xúc với cuộc đời và sự màu nhiệm vô tận. Chạm vào đất Mẹ là nguồn căn của sám Pháp địa xúc, người thường cũng có thể thực hành khi bế tắc, lo sợ, Người nhẫn nại bảo hộ, che chở và cho ta lối thoát, mọi thứ tự khắc trở nên nhẹ nhàng.

Cuốn sách tiếp tục với Năm uẩn trong một con người: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đều cần ta trị vì, cai quản. Có chánh niệm sẽ nhận diện được tập khí khi chúng đang phát khởi và ngăn ngừa nó hoành hành ta, quấy nhiễu giấc ngủ ta mỗi đêm. Cả những tri giác sai lầm vây bám lấy tâm trí ta, cũng sẽ được loại bỏ.

Khép lại với Năm giới tân tu: Bảo vệ sự sống, Hạnh phúc chân thật, Tình thương đích thực, Lắng nghe và ái ngữ, Nuôi dưỡng và trị liệu là năm phép thực tập chánh niệm, có khả năng xóa bỏ mọi rào cản, kể cả hận thù và tuyệt vọng để ta bước đi trên con đường thanh thản, sống cuộc đời đáng sống của ta.

Gieo trồng hạnh phúc

Đọc sách Gieo trồng hạnh phúc tại đây.

Đọc sách Gieo trồng hạnh phúc tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Chánh Niệm là nguồn năng lượng tỉnh thức đưa ta trở về với giây phút hiện tại và giúp ta tiếp xúc sâu sắc với sự sống trong mỗi phút giây của đời sống hằng ngày. Chúng ta không cần phải đi đâu xa để thực tập chánh niệm. Chúng ta có thể thực tập chánh niệm ngay trong phòng mình hoặc trên đường đi từ nơi này đến nơi khác. Ta vẫn có thể tiếp tục làm những công việc ta thường làm hằng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, ăn, uống, giao tiếp, chuyện trò… nhưng với ý thức là mình đang làm những công việc ấy.

Hãy tưởng tượng ta đang ngắm mặt trời mọc với một số người. Trong khi những người khác đang thưởng thức khung cảnh đẹp đẽ ấy thì ta lại bận rộn với những thứ trong đầu mình. Ta bận rộn và lo lắng cho những kế hoạch của ta. Ta nghĩ về quá khứ hoặc tương lai mà không thực sự có mặt để trân quý cơ hội đó. Thay vì thưởng thức cảnh đẹp của buổi bình minh, ta lại để cho những khoảnh khắc quý giá ấy trôi qua oan uổng.

Nếu quả thực như vậy, ta có thể sử dụng một phương pháp khác. Mỗi khi tâm ta đi lang thang thì ta kéo tâm về và tập trung tâm ý vào hơi thở vào – ra. Thực tập hơi thở ý thức giúp ta trở về với giây phút hiện tại. Thân tâm hợp nhất, ta sẽ có mặt trọn vẹn để ngắm nhìn, quán chiếu và thưởng thức khung cảnh đẹp đẽ ấy. Bằng cách trở về với hơi thở, ta lấy lại được sự mầu nhiệm của buổi bình minh.

Chúng ta thường quá bận rộn đến nỗi quên mình đang làm gì, hoặc có khi ta quên mình là ai. Thậm chí có người quên mất là mình đang thở. Ta quên nhìn những người thương của ta và trân quý sự có mặt của họ, cho đến một ngày họ đi xa hay qua đời ta mới thấy hối tiếc. Có khi rảnh rỗi đi nữa, ta cũng không biết cách tiếp xúc với những gì đang xảy ra trong ta. Vì vậy ta mở ti vi lên xem hoặc nhấc điện thoại gọi cho ai đó. Ta nghĩ làm như thế là ta có thể trốn thoát được chính mình.

Ý thức về hơi thở là tinh yếu của chánh niệm. Theo lời Bụt dạy, chánh niệm là nguồn suối phát sinh hỷ lạc. Hạt giống chánh niệm có trong mỗi chúng ta nhưng thường thì ta quên tưới tẩm hạt giống đó. Nếu biết cách nương vào hơi thở, nương vào bước chân của mình, chúng ta có thể tiếp xúc được với những hạt giống an lành ấy và cho phép chúng biểu hiện. Thay vì nương vào những ý niệm trừu tượng về Bụt, về Chúa hoặc về Allah, chúng ta có thể tiếp xúc được với Bụt, với Chúa trong từng hơi thở và bước chân của mình.

Điều này nghe có vẻ dễ dàng và ai cũng có thể làm được, tuy nhiên đòi hỏi ở chúng ta một sự tập luyện. Quan trọng là tập dừng lại. Dừng lại như thế nào? Dừng lại bằng hơi thở vào ra và bước chân của mình. Vì vậy pháp môn căn bản của chúng ta là hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm. Nếu nắm vững những pháp môn này, chúng ta có thể ăn, uống, nấu nướng, làm việc, lái xe… trong chánh niệm. Và chúng ta luôn luôn an trú trong giây phút hiện tại, bây giờ ở đây.

Thực tập chánh niệm (smrti) đưa đến định (samadhi) và định đưa đến tuệ (prajna). Tuệ giác mà ta đạt được từ sự thực tập chánh niệm có khả năng giải phóng chúng ta ra khỏi những tình trạng sợ hãi, lo âu, tuyệt vọng và đem lại hạnh phúc đích thực cho ta. Chúng ta có thể sử dụng những đối tượng đơn giản như bông hoa để thực tập chánh niệm. Khi cầm bông hoa trong tay, chúng ta ý thức về bông hoa. Hơi thở vào ra giúp ta duy trì ý thức. Thay vì để cho những suy nghĩ trấn ngự hoặc lôi kéo, ta trở về có mặt cho bông hoa và thưởng thức vẻ đẹp của bông hoa. Định lực sẽ trở thành nguồn suối phát sinh niềm vui trong ta.

Để thưởng thức trọn vẹn những món quà mà cuộc sống ban tặng, chúng ta phải thực tập chánh niệm trong mọi lúc, mọi nơi dù đang đánh răng, chuẩn bị thức ăn sáng hay lái xe đi làm. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở có thể là một cơ hội đem đến cho ta niềm vui và hạnh phúc. Cuộc sống đầy dẫy khổ đau. Nếu không đủ hạnh phúc, ta sẽ không chăm sóc được nỗi khổ đau và tuyệt vọng của mình. Chúng ta hãy thực tập với tinh thần nhẹ nhàng thư thái, với tâm hồn rộng mở bao la và với một trái tim sẵn sàng lắng nghe, chấp nhận. Thực tập là để nuôi lớn hiểu biết chứ không phải để phô trương hình thức. Có chánh niệm, ta có thể nuôi lớn được niềm vui trong ta, giúp ta xử lý tốt hơn những khó khăn thách thức trong cuộc sống và biết cách chế tác tự do, an lạc, thương yêu trong mỗi chúng ta.

Đường xưa mây trắng

Đọc sách Đường xưa mây trắng tại đây.

Mua sách Đường xưa mây trắng tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Đường Xưa Mây Trắng là một câu chuyện vô cùng lý thú về cuộc đời của Bụt được kể lại dưới ngòi bút hùng hồn đầy chất thơ của tác giả. Với văn phong nhẹ nhàng giản dị, với lối kể chuyện sinh động lôi cuốn, tác giả đã đưa chúng ta trở về tắm mình trong dòng sông Nguyên thỉ cách đây gần 2.600 năm, để được hiểu và gần gũi với một bậc giác ngộ mà cuộc đời của Ngài tỏa rạng nếp sống đầy tuệ giác và từ bi. Đọc Đường Xưa Mây Trắng cho chúng ta cảm tưởng như đang đọc một thiên tình sử, nhẹ nhàng, gần gũi mà sâu lắng.

Sách Đường Xưa Mây Trắng đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng, được tái bản nhiều lần ở các nước và được xếp vào hàng những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20.

Tôi đã viết những chương của Đường Xưa Mây Trắng với rất nhiều hạnh phúc. Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với Đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết, mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá.

Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ ba anh em ông Ca Diếp. Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chãi là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công.

Cái chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Mình đã thành Phật rồi, mình đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình mình vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của em. Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công.

Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả, giúp cho người ta khám phá lại Bụt như một con người và lột ra hết các vòng hào quang thần dị người ta đã choàng lên cho Bụt. Không thấy Bụt như một con người thì người ta sẽ tới với Bụt rất khó.

Thiền sư và em bé 5 tuổi

Đọc sách Thiền sư và em bé 5 tuổi tại đây.

Mua sách Thiền sư và em bé 5 tuổi tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Trong lòng chúng ta ai cũng có một em bé đang đau khổ. Ai cũng có một thời gian khó khăn khi còn thơ ấu và nhiều người đã trải qua những chấn động tâm lý, những tổn thương lớn mà vết thương còn lưu lại đến bây giờ. Để tự bảo vệ và phòng hộ trước những khổ đau trong tương lai, chúng ta thường cố quên đi thời gian đau lòng đó. Mỗi khi tiếp xúc với những kinh nghiệm khổ đau ấy, chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ không chịu đựng nổi, sẽ không có khả năng xử lý nên chúng ta nén chặt những cảm xúc và ký ức của mình vào đáy sâu vô thức. Đó có thể là do đã từ lâu chúng ta không đủ can đảm để đối diện với em bé đó.

Cho dù chúng ta bỏ mặc em bé nhưng không có nghĩa là em bé không có ở đó. Cái em bé tổn thương luôn có mặt trong ta và đang cố gắng lôi kéo sự chú ý của ta. Chúng ta muốn chấm dứt những nỗi đau khổ của mình bằng cách nhốt em bé vào một nơi sâu kín trong lòng và cho nó ở đó càng lâu càng tốt. Tuy nhiên trốn tránh không thể chấm dứt được nỗi đau khổ, trái lại chỉ kéo dài nó lâu hơn mà thôi.

Chúng ta đau khổ vì không tiếp xúc được với lòng từ bi và sự hiểu biết. Nếu chúng ta chế tác được năng lượng chánh niệm, hiểu biết và từ bi cho em bé bị tổn thương của chúng ta, chúng ta sẽ ít đau khổ hơn. Khi chúng ta chế tác được chánh niệm thì từ bi và cảm thông là điều ta có thể đạt được và chúng ta có thể cho phép những người khác thương mình.

Trước đây, chúng ta nghi ngờ mọi người, nghi ngờ tất cả. Tuy nhiên, lòng từ bi giúp chúng ta liên hệ được với những người khác và thiết lập lại sự kết nối.

Những người chung quanh ta, gia đình và bạn bè, có thể cũng có một vài em bé bị tổn thương trong họ. Nếu chúng ta thực tập và giúp được cho chính mình, chúng ta cũng có thể giúp được cho họ. Khi chúng ta chữa trị được cho chính mình thì những mối quan hệ của chúng ta với những người khác sẽ trở nên dễ dàng hơn. Sẽ có nhiều an lạc và tình thương hơn.

Hãy quay về chăm sóc chính mình. Thân thể của ta, những cảm nhận của ta và những tri giác của ta đang cần ta. Em bé bị tổn thương trong ta đang cần ta. Nỗi khổ niềm đau của ta cần ta công nhận. Hãy trở về ngôi nhà của chính mình và có mặt cho tất cả những điều đó. Thực tập hơi thở và bước chân chánh niệm, làm tất cả các công việc trong chánh niệm là ta có khả năng có mặt thực sự, nhờ đó ta lại có thể yêu thương.

Từng bước nở hoa sen

Đọc sách Từng bước nở hoa sen tại đây.

Mua sách Từng bước nở hoa sen tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Từng Bước Nở Hoa Sen,

Không nhơ cũng không sạch,

Không bớt cũng không thêm,

Trí tuệ Ba La Mật,

Không có pháp nào trên.

Sống là chuyển hóa không ngừng, tất cả mọi vật nương vào nhau để tồn tại. Thân tâm an trú trong chánh niệm thì khi đốt một lò trầm, tâm ta cũng thanh tịnh. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận cả sinh lẫn diệt, cả còn lẫn mất, cả vui lẫn buồn. Vì có sự sống là có chết chóc… có sum họp thì có chia lìa, có được thì sẽ mất đi…

Đức Phật dạy rằng:

Cứu chữa cho tâm quan trọng hơn là cho thân, vì đó là nguyên nhân gây ra bao điều tội lỗi. Người có tâm từ bi rộng lớn và hành vi thiện lành, tâm sẽ ít bị vẩn đục bởi phiền não tham, sân, si chi phối. Nếu chúng ta mỗi ngày tỉnh giác từng ý nghĩ, lời nói và hành động của mình, thì ta sẽ biết cách làm chủ bản thân để ngày càng hoàn thiện chính mình hơn về mọi mặt.

Từng bước nở hoa sen của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những quyển sách dạy ta cách sống an nhiên như thế. Bốn mươi bảy bài kệ trong sách cũng là bốn mươi bảy bài học giúp ta tu tập chánh niệm mỗi ngày, hướng đến sự an lạc trong cả tâm, thân và sống hết mình cho từng giây phút hiện tại.

Fear – Sợ hãi (Hóa giải sợ hãi bằng tình thương)

Đọc sách Fear – Sợ hãi Hóa giải sợ hãi bằng tình thương tại đây.

Mua sách Fear – Sợ hãi Hóa giải sợ hãi bằng tình thương tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Hầu hết chúng ta ai cũng đã trải qua những giây phút hạnh phúc lẫn khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên có nhiều người ngay lúc đang vui sướng nhất mà lòng vẫn trĩu nặng lo sợ, sợ ngày vui sẽ qua mau, sợ không như mong cầu, sợ phải xa cách người thương và một nỗi sợ lớn nhất, sợ thân xác mình sẽ tàn hoại. Cho nên ngay lúc biết bao điều kiện của hạnh phúc có đó niềm vui vẫn không trọn vẹn.

Chúng ta cứ nghĩ rằng để được hạnh phúc thì phải tránh né hay quên đi lo sợ. Chúng ta không mấy thoải mái khi phải nghĩ đến những gì đã làm cho ta lo sợ, rồi chúng ta chối bỏ: Thôi! Thôi! Tôi không muốn nghĩ tới chuyện đó! Chúng ta nhắm mắt làm ngơ nhưng lo sợ vẫn còn đó trong ta.

Cách duy nhất để bớt đi lo sợ và thật sự hạnh phúc là nhận diện lo sợ và quán chiếu gốc rễ của lo sợ. Thay vì tránh né, ta sử dụng khả năng tỉnh giác và quán sát tinh tường.

Chúng ta lo sợ những gì ngoài tầm kiểm soát của ta. Chúng ta sợ bệnh, sợ già, sợ mất đi những gì mà ta trân quý. Chúng ta cố ôm giữ địa vị, tài vật và người thương. Nhưng ôm giữ không giúp bớt lo sợ. Trước sau gì sẽ có một ngày chúng ta phải buông bỏ tất cả. Chúng ta không thể mang địa vị, tài vật, người ta thương theo chúng ta mãi.

Chúng ta có thể nghĩ rằng nếu làm ngơ lo sợ thì lo sợ sẽ tan biến. Nhưng nếu cứ làm ngơ, cứ chôn chặt lo sợ vào lòng thì lo sợ vẫn ở đó và luôn làm ta căng thẳng. Chúng ta cảm thấy bất lực. Nhưng chúng ta có khả năng quán chiếu, nhìn sâu vào lo sợ và từ đó, lo sợ không còn khống chế được ta. Chúng ta có khả năng chuyển hóa lo sợ. Thực tập sống tỉnh thức từng giây phút hiện tại, ta gọi đó là CHÁNH NIỆM, sẽ giúp ta can đảm đối diện lo sợ và không còn bị lo sợ bức bách. Chánh niệm có nghĩa là nhìn sâu, là ý thức tự tính tương tức (true nature of interbeing) của vạn vật và ý thức rằng không có gì sẽ mất đi.

Tất cả chúng ta ai cũng từng lo sợ, nhưng nếu chúng ta biết nhìn sâu vào lo sợ thì ta có thể giải tỏa lo sợ và tìm lại nguồn vui. Lo sợ khiến chúng ta chú tâm về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Nếu chấp nhận lo sợ thì ta khám phá ra rằng ngay lúc này, hôm nay đây ta còn sống, cơ thể ta đang hoạt động diệu kỳ, mắt ta đang thấy được trời xanh, tai ta còn nghe được tiếng nói của người ta thương.

Bước thứ nhất của sự quán chiếu lo sợ là nhận diện mà không phán xét. Hãy nhận diện với tâm bình thản rằng lo sợ đang có đó trong ta, như thế cũng đủ để vơi bớt lo sợ rất nhiều. Tiếp theo, khi lo sợ đã lắng dịu, chúng ta ôm ấp niềm lo nỗi sợ một cách êm dịu và nhìn sâu vào nguồn gốc của lo sợ. Hiểu được nguồn gốc của lo sợ, ta buông bỏ được lo sợ. Hãy tìm hiểu xem lo sợ là do nguyên nhân hiện tại hay là do nguyên nhân từ xa xưa, từ khi ta còn nhỏ, mà ta đã ôm chặt trong lòng cho tới bây giờ? Khi chúng ta sử dụng chánh niệm để đối diện lo sợ thì chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta đang sống, rằng chúng ta còn có những gì ta trân quý và yêu thích. Nếu không phí thì giờ đè nén, bận tâm vì lo sợ, ta sẽ có thì giờ vui hưởng nắng ấm, trời trong, gió lành. Nếu quán chiếu sâu sắc và tỏ tường lo sợ thì ta sẽ khám phá ra rằng ta có thể sống một cuộc đời đáng sống.

Nỗi lo sợ lớn nhất là sợ rằng khi chết ta không còn là gì nữa. Để thực sự giải thoát khỏi nỗi sợ đó, ta phải nhìn sâu dưới cái nhìn bản môn (ultimate dimension) để thấy được bản chất không sinh không diệt của ta. Phải từ bỏ định kiến rằng ta chỉ có một thân xác này và nó sẽ tàn hoại khi ta chết. Hiểu rằng ta không chỉ là một thân xác, rằng ta không đến từ hư không và sẽ tan biến vào hư không. Hiểu như thế ta sẽ giải thoát khỏi lo sợ.

Đức Bụt là một con người như tất cả chúng ta. Ngài cũng đã từng lo sợ nhưng ngài thường xuyên thực tập chánh niệm và quán chiếu sâu sắc cho nên ngài đã bình thản khi đối diện lo sợ. Kinh chép rằng một hôm Bụt đang đi thì Angulimala, một tên giết người khét tiếng đuổi theo ngài và hô lớn bảo ngài dừng lại nhưng Bụt vẫn tiếp tục chậm rãi bình thản bước. Angulimala đuổi kịp Bụt và lớn tiếng hỏi tại sao ngài không chịu dừng lại. Đức Bụt trả lời: Angulimala, ta đã dừng lại từ lâu, chỉ có ngươi là không dừng lại. Và Bụt giải thích tiếp: Ta đã dừng những hành động gây đau khổ. Tất cả các loài chúng sinh đều ham sống, sợ chết. Chúng ta phải nuôi dưỡng lòng thương và bảo vệ sự sống của mọi loài. Angulimala tỉnh ngộ và xin Bụt giảng tiếp. Cuối cùng, Angulimala thề sẽ không bao giờ giết chóc, bạo ngược và xin Bụt xuất gia.

Tại sao Đức Thế Tôn có thể bình tĩnh trước một tên giết người? Đây là một câu chuyện hiếm có nhưng tất cả chúng ta hằng ngày đều đã đối diện với hết lo sợ này đến lo sợ khác. Thực tập chánh niệm mỗi ngày có thể giúp ích rất nhiều.

Fear – sợ hãi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, với hơi thở, với tỉnh thức, chúng ta có thể đối xử với bất cứ điều gì xảy đến cho ta, để chúng ta cùng nhận diện không sợ hãi không chỉ là thói quen tốt mà còn là một niềm vui thâm diệu. Mỗi khi tâm ta không có sợ hãi, ta được tự do. Không ai có thể cho ta sự không sợ hãi. Ngay khi có đức Bụt ngồi đó bên cạnh, ngài cũng không thể cho bạn sự không sợ hãi. Nếu bạn tập được thói quen chánh niệm thì khi gặp khó khăn, bạn sẽ biết là bạn phải làm gì.

Trong cái không có gì không? (Thiền sư Thích Nhất Hạnh trả lời cho trẻ em những thắc mắc về ý nghĩa cuộc sống, cái chết, gia đình, bạn bè và nhiều câu hỏi khác)

Đọc sách Trong cái không có gì không? (Thiền sư Thích Nhất Hạnh trả lời cho trẻ em những thắc mắc về ý nghĩa cuộc sống, cái chết, gia đình, bạn bè và nhiều câu hỏi khác) tại đây.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã giải đáp được những câu hỏi khó, ngộ nghĩnh và chân thành của các em nhỏ trong mọi lứa tuổi.

Vui tươi mà sâu sắc, Trong cái KHÔng có gì không? là lời giải đáp hoàn toàn thích hợp cho những câu hỏi của các bạn nhỏ, cho những người lớn đang đi tìm những câu trả lời cho con em họ, hay cho những ai đang có những câu hỏi của riêng mình.

Muốn an được an

Đọc sách Muốn an được an tại đây.

Mua sách Muốn an được an tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Ngày chủ nhật và cũng là ngày cuối cùng của tháng 11 năm 2014 tôi nhận được bản thảo cuốn sách Muốn an được an của thiền sư Thích Nhất Hạnh đã được sư cô Hội Nghiêm dịch ra tiếng Việt từ bản nguyên gốc tiếng anh Being peace. Tôi ngồi vào bàn rồi đọc ngay tức khắc.

Tôi đọc ngay những dòng đầu tiên và phải đọc đi đọc lại vài lần những dòng những chữ của thiền sư Thích Nhất Hạnh: Nếu tự thân ta không có hạnh phúc, bình an thì chúng ta không thể hiến tặng hạnh phúc và bình an cho ai được, kể cả những người ta thương, những người ta cùng chung sống trong một mái ấm gia đình. Có bình an, hạnh phúc thì chúng ta sẽ mỉm cười và xinh tươi như một bông hoa, khi đó, mọi người chung quanh ta, từ gia đình cho đến xã hội, ai cũng được thừa hưởng.

Mỗi ngày chúng ta có rất nhiều cảm thọ. Khi thì hạnh phúc, lúc thì buồn khổ. Các cảm thọ cứ lần lượt đến với ta như một dòng sông. Rõ ràng việc thực tập thiền là rất quan trọng. Hành thiền để ý thức được, ghi nhận từng cảm thọ, thậm chí ôm ấp từng cảm thọ. Tôi luôn nhắc mình thực tập như vậy. Tôi biết điều này bởi thiền sư Thích Nhất Hạnh đã hướng dẫn chúng tôi cách đây tròn 10 năm, từ 2005 khi tôi may mắn được biết đến Thầy. Nhờ Thầy mà tôi dần biết cách tìm bình an trong chính mình.

Tôi đã nhận ra rằng thiền rất giản đơn, có thể thiền tập ở bất cứ đâu và bất cứ giờ nào trong ngày. Thiền không có nghĩa là vào rừng ẩn tu hay trốn tránh xã hội. Nếu như chúng ta cùng nhắc nhau thiền mỗi ngày thì đời sống đẹp biết nhường nào và xã hội sẽ tươi mát vô cùng.

Muốn an thì có an. Vấn đề là ta phải muốn. Có hai thời điểm rất quan trọng mà tôi luôn nhắc tâm của mình bình an. Đó là đầu giờ sáng và trước khi ngủ. Tôi hay nhắc tâm an lạc, nhắc miệng mỉm cười thư giãn. Muốn an thì được an mà. Muốn hạnh phúc thì có ngay hạnh phúc mà. Hạnh phúc từ trong ta mới lâu mới bền, chứ hạnh phúc mang từ bên ngoài vào đến và đi nhanh lắm.

Đôi khi, bạn cũng như tôi, chúng ta quá bận rộn. Bận đến mức không dành thời gian cho người thân và bạn bè. Bận đến mức không có thời gian để ngắm cây, ngắm trời, ngắm hoa ngắm đất. Thậm chí quên mất chuyện thở và ta thở tự động như một cái máy, thở không có ý thức. Thật là tiếc. Bạn và tôi vẫn đang bị tập khí lôi cuốn. Bây giờ, đọc Muốn an được an rồi chúng ta luôn tự nhắc mình và nhắc nhau hai chữ bình an để tạo bình an cho chính mình.

Hỏi đáp từ trái tim

Đọc sách Hỏi đáp từ trái tim tại đây.

Mua sách Hỏi đáp từ trái tim tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

_Khi mới bắt đầu thực tập chánh niệm, quý vị thường có cả ngàn câu hỏi. Nhưng trước khi tìm người khác để xin giải đáp thì hãy ngồi xuống với câu hỏi của mình. Quý vị sẽ ngạc nhiên khi khám phá ra rằng nhờ nhìn sâu và ôm ấp câu hỏi mà quý vị có thể tự trả lời hầu hết các câu hỏi của mình. Chúng ta có thói quen luôn hướng ngoại, nghĩ rằng chúng ta có thể tiếp nhận tuệ giác hay từ bi từ một người khác, từ Bụt, từ lời dạy của Bụt (Pháp) hay từ Tăng thân. Nhưng mà quý vị là Bụt, quý vị là Pháp, quý vị là Tăng.

Mục đích của cuốn sách này không phải để giảng dạy đạo Bụt. Chất chứa kiến thức về đạo Bụt không giúp ta trả lời được những câu hỏi khẩn thiết. Chúng ta phải học những gì có thể giúp chuyển hóa khổ đau của chính chúng ta, tháo gỡ những tình huống ngặt nghèo của chính chúng ta.

Một vị đạo sư nếu là một vị đạo sư đích thực thì những lời giảng dạy của người phải giúp ta tiếp xúc với sự sống và giúp ta cởi bỏ thành kiến, ý tưởng cũng như tập khí. Mục đích của một vị đạo sư đích thực là giúp đệ tử của mình chuyển hóa. Một câu hỏi hay là một câu hỏi có thể giúp ích cho rất nhiều người. Chúng ta nên đặt những câu hỏi từ tận đáy lòng mình, những câu hỏi liên quan đến hạnh phúc, khổ đau, sự chuyển hóa và sự thực tập. Một câu hỏi hay không cần phải dài dòng. Thiền sư Lâm Tế là một thiền sư nổi tiếng ở Trung Quốc của thế kỷ thứ chín. Ông ta nổi tiếng vì những cuộc thi ề n chiến giữa thầy và trò. Một thiền sinh thường đứng lên hỏi một câu hỏi để xem thử mức hiểu biết của mình đã chín muồi hay chưa. Thiền sư Lâm Tế thường bắt đầu bằng câu: Nào, có vị nào xuất trận thì ra đây. Trong trận chiến ấy thiền sinh đôi khi thắng, đôi khi bại. Trong cuốn sách này những vị nêu lên câu hỏi không cần phải xuất trận. Trong một trận chiến sẽ có người thắng kẻ thua. Trái lại, tôi cố gắng nhìn sâu vào từng câu hỏi và từng người hỏi với tâm từ bi, như chính tôi là người đã nêu lên câu hỏi ấy. Điều này không có nghĩa là những câu trả lời sẽ nói lên được những gì mình muốn nghe. Chúng ta có xu hướng tránh né một mũi tiêm hay một viên thuốc đắng mặc dầu ta biết mũi tiêm hay viên thuốc đắng ấy giúp ta lành bệnh. Cũng thế, chúng ta thường tránh né những câu trả lời gợi lên những kinh nghiệm khổ đau của đời mình.

Đôi khi những câu trả lời trong nhà Thiền giống như những rào cản giúp chặn đứng dòng suy luận của thiền sinh. Suy luận không phải là chứng ngộ. Chứng ngộ nhanh hơn chớp nhoáng. Ở đâu có suy luận là ở đó có thất bại.

Đôi khi vị đạo sư phải trả lời theo cách mà thiền sư Lâm Tế gọi là đoạt cảnh. Nghĩa là khi một thiền sinh nêu lên một câu hỏi, nếu vị đạo sư dành hết thì giờ giải thích thì có khi chẳng giúp ích gì và vị thiền sinh vẫn còn bị kẹt trong suy luận và kiến chấp của mình. Thay vào đó, vị đạo sư gạt bỏ câu hỏi, bởi vì câu hỏi ấy rất có thể nêu lên một trở ngại không thật. Tôi thường đoạt cảnh để đưa câu hỏi về lại với thiền sinh.

Tôi hy vọng rằng nhờ những câu hỏi trong cuốn sách này mà hành giả có thể tìm được phương thuốc chữa trị rất cần thiết. Lời dạy của Bụt thường được gọi là viên âm. Nghĩa là lời dạy tròn đầy, phù hợp với mọi chúng sanh. Viên âm cũng có nghĩa là lời dạy thích hợp cho người nghe, có liên hệ trực tiếp với hoàn cảnh hiện thực của người nghe. Tham vấn là một cơ hội giúp ta thực tập khả năng lắng nghe với lòng rộng mở, sẵn sàng đón nhận trong trạng thái tĩnh lặng an nhiên. Lắng nghe như thế thì chắc chắn ta sẽ nhận được phương thuốc mà ta đang cần._

Trồng một nụ cười – Cùng trẻ thực hành chánh niệm

Đọc sách Trồng một nụ cười – Cùng trẻ thực hành chánh niệm tại đây.

Mua sách Trồng một nụ cười – Cùng trẻ thực hành chánh niệm tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Hiện nay, vai trò của chánh niệm trong giáo dục ngày càng được công nhận một cách rộng rãi. Sự thực tập chánh niệm giúp học sinh tăng cường khả năng chú tâm, ý thức và làm chủ được các hoạt động của thân, điều phục các cảm xúc mạnh cũng như phát triển các kỹ năng giao tiếp, ứng xử trong mối liên hệ giữa mình với mọi người. Nhưng quan trọng hơn hết, chánh niệm giúp các em phát triển một cách toàn diện và lành mạnh, nuôi lớn niềm vui, sự bình an và tự tin nơi chính mình, thông qua những phương pháp thực tập làm lắng dịu căng thẳng, lo lắng và bạo động trong tự thân.

Thực tế là hệ thống giáo dục của chúng ta thường đặt trọng tâm vào thành tích thi cử mà chưa chú trọng đầy đủ đến việc dạy cho các em cách chăm sóc những cảm xúc của mình, cũng như các phép ứng xử cần thiết khi giao tiếp với xã hội. Lẽ tất nhiên là trường học cần trang bị cho các em những kỹ năng và kiến thức cần thiết, nhưng việc giúp các em có thêm sức mạnh và sự vững chãi khi đối diện với những cơn bão cảm xúc, cũng như khả năng chấp nhận và bao dung trước những khác biệt trong nhận thức, lối sống của con người trong xã hội cũng quan trọng không kém. Sự thực tập chánh niệm có công năng rất lớn trong việc giúp các em phát triển những kỹ năng chế tác và nuôi lớn bình an trong tự thân, góp phần vào sự bình an của môi trường xung quanh mình.

Cách đây một vài năm, hiệu trưởng của trường nữ sinh Welham (Welham Girls_ School) ở Dehra Dun, Ấn Độ có mời tôi chia sẻ một vài phương pháp thực tập chánh niệm với học sinh của trường nhằm giúp các em bớt căng thẳng trong các kỳ thi. Trong buổi chia sẻ đó, tôi nhận ra rằng những bài thực tập đơn giản về hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm đã có thể giúp các em lấy lại được sự bình an, lắng dịu và bớt lo lắng.

Theo lời mời của hiệu trưởng trường American Embassy School tại Delhi, tôi cũng đã hướng dẫn một khóa học về chánh niệm cho các giáo viên trong mười tuần. Đến bây giờ, những thầy cô giáo đã từng tham gia khóa học vẫn tiếp tục gặp nhau mỗi tuần một lần để chia sẻ sự thực tập. Dù khá bận rộn, các thầy cô giáo vẫn ưu tiên dành thời gian để đến và thực tập với nhau, bởi vì họ nhận ra sự thực tập chánh niệm có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với hạnh phúc của bản thân cũng như của các em học sinh. Cheryl Perkins, một giáo viên của trường American Embassy School với hơn ba mươi năm kinh nghiệm giảng dạy đã chia sẻ: Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi sử dụng một công cụ giảng dạy nào có khả năng làm cho học sinh trong lớp học trở nên lắng dịu như tiếng chuông chánh niệm.

Tôi đến Làng Mai lần đầu tiên vào năm 1989 và từ đó đến nay tôi vẫn thường xuyên đến Làng tu học. Mùa hè nào, Thiền sư Nhất Hạnh cũng tổ chức khóa tu cho các gia đình. Trong những khóa tu này, thiền sinh – đủ các độ tuổi – cùng nhau thực tập trở về với chính mình để ý thức rõ mình là ai, mình đang làm gì, nói gì, đang có những cảm xúc hay suy nghĩ gì, ý thức về những gì đang diễn ra bên trong và xung quanh mình. Cuốn sách này chính là hoa trái tu học của tứ chúng Làng Mai, được hình thành dựa trên kinh nghiệm thực tập cùng với trẻ em trong mấy chục năm qua.

Trong cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng quý thầy, quý sư cô Làng Mai và nhiều cư sĩ đã hiến tặng tuệ giác của mình và đóng góp những câu chuyện, những phương pháp thực tập cụ thể mà các bậc phụ huynh, thầy cô giáo và bất kỳ ai làm việc trong lĩnh vực có liên quan đến trẻ em đều có thể áp dụng. Những phương pháp thực tập vô cùng hữu ích này có thể được áp dụng trong gia đình, trường học, các đoàn thể địa phương một cách linh hoạt, sao cho nó thực sự có ý nghĩa và tạo hứng thú cho trẻ em.

Cuốn sách này là một cuốn cẩm nang dành cho tất cả những ai muốn thực tập và chia sẻ chánh niệm với trẻ em. Để có thể chia sẻ từ kinh nghiệm của chính mình, chúng ta cần thực tập trước tiên. Nếu chúng ta áp dụng những phương pháp thực tập trong cuốn sách này với gia đình và trẻ em trong cộng đồng nơi chúng ta ở thì cả trẻ em và người lớn đều được hưởng năng lượng bình an, tươi vui và hòa điệu mà sự thực tập mang lại.

Mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng đến những thành viên khác trong cộng đồng. Vì vậy, khi có một vài nhóm nhỏ thực tập chánh niệm trong trường học hay trong cộng đồng, năng lượng bình an từ những nhóm người này sẽ có tác động lan tỏa rất lớn. Sự gắn kết, hòa điệu giữa con người với nhau cũng như với môi trường thiên nhiên xung quanh nhờ đó mà lớn dần lên. Chính trong bầu không khí an lành này, trẻ em mới có thể vui vẻ, thoải mái phát huy mọi tài năng vốn có của mình.

– Shantum Seth, một giáo thọ cư sĩ thực tập theo truyền thống Làng Mai, viết tại Delhi, Ấn Độ, năm 2010.

Trích đoạn sách:

Lắng trong

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Trước khi thành lập Làng Mai, tôi đã sống ở Phương Vân Am cách Paris một tiếng rưỡi lái xe. Phương Vân Am nằm trên một ngọn đồi, xung quanh là rừng cây. Một hôm, có hai cha con người Việt đến Phương Vân Am. Người cha muốn nhờ tôi chăm sóc đứa con gái của ông, bé Thanh Thủy, để ông có thể lên Paris lo giấy tờ và kiếm việc làm. Bé Thanh Thủy khi ấy gần năm tuổi.

Tối nào Thanh Thủy cũng thấy tôi ngồi. Tôi bảo bé là tôi ngồi thiền và tôi không hề nói cho bé biết ngồi thiền là gì và ngồi như thế để làm gì. Mỗi tối, khi thấy tôi rửa mặt, mặc áo tràng và đi thắp một cây nhang cho thơm thiền phòng là nó biết tôi sắp đi ngồi thiền. Nó cũng biết là đã đến giờ nó phải đi đánh răng, thay áo và leo lên chỗ nằm mà không nói chuyện.

Một ngày nọ, Thanh Thủy và mấy em bé khác chơi với nhau trên khu đồi phía sau nhà. Chơi được một lúc, chúng đến xin tôi nước uống. Tôi đi tìm chai nước táo cuối cùng còn lại và đem rót vào cho mỗi đứa một ly đầy. Ly chót là của Thanh Thủy. Ly này lợn cợn xác táo, không trong như ba ly trước. Thanh Thủy phụng phịu chê, không uống, rồi lại chạy lên đồi chơi.

Chừng một giờ sau, bé quay lại tìm nước uống. Tôi chỉ lên bàn, bảo: Cháu uống ly nước táo này đi. Thủy ngoảnh lại nhìn. Ly nước táo bấy giờ trong vắt không còn một tí lợn cợn nào nữa, trông thật ngon lành. Nó tới gần và đưa hai tay nâng ly nước táo lên uống. Uống được chừng một phần ba ly, Thủy đặt ly xuống và ngước mắt nhìn tôi:

Có phải đây là một ly nước táo mới không thưa ông?

Tôi trả lời:

Không, ly nước táo hồi nãy đó. Nó ngồi yên một lúc lâu cho nên trở thành trong vắt và ngon lành như vậy đó cháu.

Thủy nhìn lại ly nước táo:

Ngon quá ông ơi. Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền không hả ông?

Tôi bật cười vỗ nhẹ lên đầu nó. Có lẽ nói rằng tôi đã bắt chước ly nước táo mà ngồi thiền thì đúng hơn.

Chắc rằng trong cái đầu tí hon của nó, bé Thủy nghĩ rằng ly nước táo ngồi yên một hồi lâu là để cho nó lắng trở lại, và ông của nó ngồi yên một hồi lâu chắc cũng là để cho lắng trong, cho khỏe khoắn như ly nước táo. Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền không hả ông? Tôi nghĩ bé Thủy chưa đầy bốn tuổi rưỡi mà đã hiểu thế nào là ngồi thiền mà không cần ai giải thích gì cho nó.

Ly nước táo ngồi lâu thì lắng trong. Theo cùng một định luật, ngồi lâu thì ta cũng lắng trong. Nếu ta biết cách ngồi, biết cách điều chỉnh tư thế ngồi của mình cho thật vững chãi, có mặt với hơi thở vào và hơi thở ra, thì sau một lúc, tâm ta sẽ trở nên an tĩnh và lắng trong.

Chúng ta phải học cách chăm sóc chính mình trong đời sống hàng ngày, trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, trong lúc ăn hoặc đánh răng. Con người chúng ta được tạo thành bởi năm yếu tố: hình hài, cảm xúc, tri giác, tâm hành và nhận thức. Năm yếu tố này là lãnh thổ vô cùng rộng lớn của chúng ta. Ta chính là vị quốc vương trên lãnh thổ ấy. Ta phải biết trở về và chăm sóc cho lãnh thổ của mình. Chánh niệm giúp chúng ta làm được việc ấy. Ví dụ như khi có một vùng nào đó trên cơ thể bị căng thẳng hay đau nhức, việc trước tiên ta nên làm là trở về và chăm sóc cho vùng đang bị thương tổn ấy. Ta hãy dành cho mình những giây phút lắng yên, trở về với hơi thở và thầm đọc:

Thở vào, tôi ý thức về toàn thân tôi.

Thở ra, tôi buông thư toàn thân (buông bỏ hết những căng thẳng trong thân).

Khi đã biết cách chăm sóc cho thân, ta sẽ biết cách chăm sóc những cảm xúc trong ta. Với năng lượng chánh niệm, ta có thể làm phát khởi niềm vui và hạnh phúc trong ta; và khi một cảm xúc mạnh biểu hiện, ta có thể chăm sóc cho cảm xúc ấy. Ta có thể theo dõi hơi thở trong khi đọc thầm:

Thở vào, tôi ý thức về cảm xúc buồn đau trong tôi.

Thở ra, tôi ôm lấy cảm xúc đó với tất cả sự dịu dàng.

Chúng ta không khỏa lấp khổ đau bằng cách tiêu thụ. Nhiều người trong chúng ta tìm cách trốn chạy khổ đau bằng cách đắm chìm trong phim ảnh, mạng lưới toàn cầu, rượu bia, sách báo, ăn uống, mua sắm, chuyện trò… Nhưng càng trốn chạy thì ta càng làm cho tình trạng khó khăn hơn mà thôi.

Bụt dạy rằng không có cái gì có thể sống sót nếu không có thức ăn. Sở dĩ niềm đau, nỗi sợ trong ta còn đó là vì ta cứ cho nó thức ăn. Một khi ta biết nhận diện và ôm ấp niềm đau, nỗi sợ thì nó lắng xuống. Nếu tiếp tục nhìn sâu, chúng ta sẽ nhận ra gốc rễ đồng thời thấy được những thức ăn nào ta đã cung cấp cho những niềm đau, nỗi sợ ấy mỗi ngày.

Nếu chúng ta khổ sở vì bị trầm cảm, chứng tỏ là ta đã sống, đã tiêu thụ như thế nào để đưa tới tình trạng trầm cảm. Bụt dạy rằng nếu chúng ta có thể nhìn sâu vào khổ đau của mình và nhận diện được nguồn thực phẩm nuôi dưỡng khổ đau, thì chúng ta đang đi trên con đường giải thoát.

Câu hỏi về muỗi

Câu hỏi: Kính bạch Sư Ông, con hay bị muỗi cắn và con không muốn muỗi cắn con nữa. Mỗi ngày con có thể giết vài con muỗi được không ạ?

Sư Ông Làng Mai: Con muốn giết bao nhiêu con muỗi?

Bé: Chắc là mỗi ngày một con ạ.

Sư Ông Làng Mai: Con có nghĩ như vậy là đã đủ rồi không?

Bé: Dạ, đủ ạ.

Sư Ông Làng Mai: Hồi nhỏ Sư Ông cũng từng đặt ra câu hỏi như vậy. Sau này, Sư Ông phát hiện ra rằng loài muỗi cũng cần thức ăn để sống. Muỗi luôn cố gắng tìm kiếm thức ăn, cũng như loài người chúng ta vậy. Ta tìm kiếm thức ăn khi đói và đó là một điều rất tự nhiên.

Sư Ông nghĩ ta có nhiều cách để bảo vệ mình khỏi bị muỗi chích. Ở Việt Nam, ai cũng thường giăng mùng ngủ mỗi đêm để tránh muỗi. Nếu không có mùng thì chắc họ phải thức cả đêm để đập muỗi. Không chỉ một vài con, vì sau khi con giết một con thì con khác sẽ đến. Con có thể thức trắng đêm chỉ để đập muỗi. Vì vậy, giết muỗi không phải là giải pháp. Sư Ông nghĩ ở Làng Mai có một số mùng. Con chỉ cần hỏi các thầy, các sư cô để mượn một cái, như vậy con có thể cứu được mạng sống nhỏ nhoi của mấy con muỗi.

Lâu lâu Sư Ông thấy một con muỗi đáp xuống và Sư Ông tạo ra một trận bão nhỏ bằng cách phẩy nhẹ cánh tay cho nó bay đi. Sư Ông làm vậy mà không có chút bực bội nào. Sư Ông chỉ không cho nó đốt mình thôi.

Con đường chuyển hóa – Kinh bốn lĩnh vực Quán niệm

Đọc sách Con đường chuyển hóa – Kinh bốn lĩnh vực Quán niệm tại đây.

Mua sách Con đường chuyển hóa – Kinh bốn lĩnh vực Quán niệm tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm và kinh Quán Niệm Hơi Thở là hai kinh gối đầu giường của các vị khuất sĩ thời Bụt còn tại thế và là nền tảng của nếp sống thiền tập đạo Bụt.

Sách Con Đường Chuyển Hóa của thiền sư Thích Nhất Hạnh là những hướng dẫn cụ thể để chúng ta tiếp xúc được suối nguồn thiền tập của đạo Bụt. Hơn thế nữa, tác giả còn hiến tặng những phương pháp thực hành thực tế giúp hành giả trải nghiệm được nếp sống tỉnh thức trong đời sống hàng ngày.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã từng nói rằng ngày phát hiện ra hai bản kinh này, Ngài thấy mình là người hạnh phúc nhất trên đời.

Quyền lực đích thực

Đọc sách Quyền lực đích thực tại đây.

Mua sách Quyền lực đích thực tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Đối với chúng ta quyền lực có ý nghĩa gì? Tại sao ai cũng tìm mọi cách để đạt cho được quyền lực? Cho dù có thể không để ý, nhưng phần đông chúng ta luôn luôn cố đạt cho được một địa vị có quyền lực bởi vì ta tin rằng quyền lực giúp ta làm chủ được đời sống, đem lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc – những gì ta mong muốn nhất.

Xã hội chúng ta được xây dựng trên một khái niệm rất hạn hẹp về quyền lực, đó là giàu có, sung túc, thành công nghề nghiệp, danh tiếng, sức khỏe, sức mạnh quân sự và quyền năng chính trị. Tôi xin đề nghị với bạn một thứ quyền lực khác, một thứ quyền lực vượt bậc: quyền lực giúp ta thoát khỏi sự ám ảnh của mê đắm, sợ hãi, tuyệt vọng, sự trấn ngự của kỳ thị, sân hận, ngu dốt; quyền lực giúp ta đạt được hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Đây là một thứ quyền lực mà bất cứ ai sinh ra cũng đều có quyền hưởng, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, mạnh yếu. Xin mời bạn cùng tôi tìm hiểu thứ quyền lực đặc biệt này.

Tất cả chúng ta ai cũng muốn có quyền lực và thành công. Nhưng nếu vì cố sức tranh đấu để có được quyền lực, rồi lại cố sức tranh đấu bảo vệ quyền lực mà bị hao mòn, mệt mỏi, bị chia cách tình nghĩa thì đâu còn có thể vui hưởng quyền lực và thành công? Quyền lực và thành công như vậy thật chẳng có ý nghĩa gì. Sống một cuộc sống sâu sắc và hạnh phúc, có thì giờ chăm sóc người thương là một thành công khác, một quyền lực khác, một thứ thành công và quyền lực quan trọng hơn nhiều. Chỉ có một thành công đáng kể đó là thành công khi chuyển hóa tự thân, vượt thắng phiền não, sợ hãi và sân hận. Đây là thứ thành công, thứ quyền lực đem lợi lạc cho chính ta và cho những người khác mà không gây ra một tác hại nào.

Muốn có quyền lực, muốn được danh tiếng hay giàu sang không phải là điều xấu. Nhưng phải nhớ rằng chúng ta theo đuổi quyền lực, danh tiếng hay tiền tài là để được hạnh phúc. Nếu giàu có và quyền thế mà không hạnh phúc thì giàu có và quyền thế để làm gì?

Tập sách này sẽ cống hiến những thực tập đơn giản, thiết thực và hữu hiệu để tạo một thứ quyền lực đích thực, đó là tự do, an ninh và hạnh phúc mà tất cả chúng ta đều mong muốn, nơi đây, ngay bây giờ, cho chính chúng ta, cho gia đình, cộng đồng, xã hội và cho cả hành tinh.

Tay thầy trong tay con

Đọc sách Tay thầy trong tay con tại đây.

Mua sách Tay thầy trong tay con tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Trong kinh Lăng Nghiêm, ở chương Đại Thế Chí Niệm Phật, ta được học rằng trong khi mẹ nhớ con và đi tìm con, nếu con cũng nhớ mẹ và đi tìm mẹ thì thế nào mẹ và con cũng tìm được nhau và hai mẹ con sẽ không bao giờ xa nhau. Điều này cũng đúng với liên hệ thầy và đệ tử: nếu thầy có chủ tâm đi tìm đệ tử trong khi đệ tử cũng có chủ tâm đi tìm thầy thì chắc chắn là thầy và đệ tử sẽ gặp nhau. Thầy tìm được con thì thầy nắm tay con để đi trên con đường thực tập, con trở thành thầy và thầy có trong con. Và như thế trong tay con đã có tay thầy.

Bài kệ xưng tán Pháp Hoa như sau:

Đêm tụng kinh Pháp Hoa,

Tiếng xao động tinh hà,

Địa cầu vừa tỉnh giấc,

Lòng đất bỗng đơm hoa,

Đêm tụng kinh Pháp Hoa,

Bảo tháp hiện chói lòa,

Khắp trời Bồ tát hiện,

Tay Bụt trong tay ta.

Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt. Ta và Bụt bất nhị. Lúc ấy thì hạnh phúc ta rất lớn.

Tay Thầy trong tay con – tuyển tập những lá thư thầy viết cho đệ tử. Mỗi lá thư là một chứng tích của tình Thầy, chứa đựng trọn vẹn những gì Thầy muốn trao truyền. Những lá thư ấy không bị giới hạn bởi thời gian, chúng có giá trị miên viễn. Do vậy không thể xếp theo trình tự thời gian để ta có thể đón nhận mỗi lá thư trong một hình thức rất mới, nội dung trao truyền được sống dậy trong thời khắc mà ta đang đọc.

Trong sách chúng ta còn tiếp xúc được những thông bạch mà Thầy đã gởi đi trong những năm qua, mỗi thông bạch như những khuôn thước nền tảng thực tập. Và phần cuối là Câu chuyện người con trai khờ dại được Thầy viết tại Phương Bối – Bảo Lộc, Lâm Đồng năm 1961. Đọc câu chuyện để ta cảm thêm sự rộng lớn của tình Thầy qua những lá thư. Chúng ta thấy người con trai trong câu chuyện là một người rất thật, và cho đến nay chưa một lần từ chối làm người khờ dại cho tình thương.

Chúng ta cùng đón nhận mối tình rất đẹp này và giữ riêng cho mình những gì rất gần, để cùng hiểu, cùng thương và cùng hiến tặng.

Đạo Phật ngày nay

Đọc sách Đạo Phật ngày nay tại đây.

Mua sách Đạo Phật ngày nay tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Dẹp bỏ tất cả những huyền đàm siêu hình, con người trở về thực tại để giải quyết những vấn đề của thực tại. Cuộc đời đầy những khổ đau. Mũi tên độc khổ đau đang làm cho chúng ta rên xiết, hãy tìm cách nhổ mũi tên đó ra khỏi thân thể của nhân loại. Chúng ta phải ý thức rằng chúng ta đang khổ đau. Ðó là nhận thức căn bản. Làm sao giải quyết vấn đề khổ đau thực tại nếu chúng ta không có ý thức về khổ đau thực tại? Làm sao có thể chữa lành được bệnh khi ta không biết là ta đang có bệnh, hoặc giả biết là bệnh nhưng không rõ là bệnh gì?

Người Phật tử không phải chỉ cần hiểu trên lý thuyết rằng cuộc đời là khổ đau. Người Phật tử phải thường trực ý thức và thực nghiệm những khổ đau của cuộc đời. Chừng nào khổ đau vẫn còn là một vấn đề phải giải quyết thì chừng ấy đạo Phật còn có sứ mệnh, người Phật tử còn là người Phật tử. Mất liên lạc với khổ đau, là mất tất cả. Lý tưởng giải thoát được nuôi dưỡng bằng những chất liệu khổ đau, cũng như hoa sen được nuôi dưỡng bằng chất bùn. Chừng nào anh không còn thấy khổ đau thì chừng ấy anh không còn là Phật tử. Hoặc giả anh đã giải thoát khổ đau cho anh và mọi người chung quanh anh, hoặc giả sống giữa khổ đau mà anh không hay không biết. Ngoài hai trường hợp ấy, anh phải khổ đau, phải ý thức về sự đau khổ của anh và của nhân loại nếu anh muốn đạt đến lý tưởng giải thoát khổ đau cho anh và nhân loại. Cũng như một dân tộc muốn tranh đấu để thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang thì phải luôn luôn ý thức rằng mình đang bị nô lệ ngoại bang. Ý thức ấy mất đi thì sự tranh đấu không còn và dân tộc ấy thất bại.

Con người cũng vậy, muốn giải thoát khổ đau phải luôn luôn ý thức và thực nghiệm khổ đau. Một khi ta bưng bít tâm hồn, một khi ta không đủ can đảm nhìn vào thực trạng của hiện hữu, một khi ta vùi thân trong cuộc sống của dễ dãi, của áo ấm cơm no, ta không nhận thức được chân tướng của cuộc đời và ta có ảo tưởng rằng cuộc đời là hạnh phúc. Cũng như dân tộc kia nô lệ khổ đau mà không biết mình nô lệ khổ đau. Ý thức về khổ đau cố nhiên luôn luôn gây cho ta một xót xa trong nội tâm, nhưng như chúng tôi đã nói, đó là những chất liệu cần thiết để nuôi dưỡng lý tưởng. Cái khổ đau xót xa của một Việt vương Câu Tiễn chẳng hạn, là chất liệu nuôi dưỡng lý tưởng phục thù của vương. Tại sao phải bảo tên hầu cận mỗi ngày nhắc cho mình nghe cái nhục mất nước? Tại sao phải treo một bọc mật đắng trước cửa để nếm mỗi khi đi ra đi vào? Ðó là Câu Tiễn muốn nuôi dưỡng lý tưởng phục thù vậy. Ðức Phật luôn luôn nhắc cho đệ tử Ngài thực nghiệm khổ đau, ý thức một cách thâm thiết về khổ đau. Không phải chỉ là những khổ đau nhỏ bé của riêng mình mà là cả thực tại khổ đau to lớn của nhân loại. Các vị Tỳ kheo phải sống cuộc đời tam thường bất túc (ba việc thường là cơm ăn, áo mặc, nhà ở không bao giờ đầy đủ quá) không phải là để ép xác khổ hạnh mà là để sống mãi trong ý thức minh mẫn về khổ đau của cuộc đời, để đừng có những ảo tưởng sai lạc về cuộc đời. Sống cuộc đời bần tăng khất sĩ là để tiếp xúc trực tiếp với quần chúng, đau niềm đau của họ, thấy thực trạng sinh hoạt tâm lý xã hội của họ. Chỉ cần mỗi ngày ba bữa cơm no, một chức tước nhỏ bé là ta có thể dễ dàng mất hết liên lạc với thực trạng khổ đau của cuộc đời, và như thế ta đã đánh mất lý tưởng của ta và đánh mất luôn bản thân ta nữa. Cho nên nếp sống Tăng sĩ trước hết là nếp sống nuôi dưỡng ý thức khổ đau, phải tự nguyện tiếp xúc với đau thương của cuộc đời và đồng lao cộng khổ với quần chúng.

Một nếp sống trưởng giả, đài các không phải là nếp sống của Tăng sĩ. An lạc chân thật chỉ có thể phát xuất từ ý thức khổ đau. Ðiều này chỉ có những người đã sống trong cuộc đời một cách dào dạt mới có thể hiểu nổi. Ðó là một sự thực mà các bậc hiền nhân đều công nhận. Khổ đau làm con người trưởng thành, không có khổ đau không thành con người. Nhưng con người cần biết sống với khổ đau, chứ không phải chỉ cần sống trong đau khổ. Niết bàn không ly khai với sinh tử khổ đau chính là ý ấy. Cả một nền đạo học được thành lập trên nhận thức căn bản cuộc đời đầy khổ đau kia. Vì đạo Phật muốn nuôi dưỡng mãi ý thức khổ đau làm chất liệu cho lý tưởng giải thoát, cho nên nhiều người đã nghĩ rằng đạo Phật bi quan. Thực ra đạo Phật không bi quan, mà cũng không lạc quan. Bi quan bao hàm một ý niệm chán nản, tuyệt vọng. Ðạo Phật nhận thức khổ đau để mà giải quyết khổ đau, chứ không phải để thở dài mà buông xuôi. Ðạo Phật đòi hỏi can đảm, đòi hỏi kiên nhẫn, đòi hỏi đại hùng đại lực. Bi quan hay lạc quan đều là những gì quá dễ dãi, nông cạn. Không lạc quan một cách ngây thơ vì một sự lạc quan như thế chứng tỏ thiếu nhận thức về thực tại của hiện hữu; không bi quan một cách yếu đuối vì một sự bi quan như thế chứng tỏ sự thiếu nhận thức về khả năng bất diệt của con người. Ðạo Phật bình thản nhận thức và cương quyết hành động. Cho nên, nghĩ rằng cửa chùa là nơi mà người ta tìm đến để trốn tránh khổ đau thì thật là oan uổng cho đạo Phật. Bởi vì giáo lý đạo Phật không dạy người ta trốn tránh khổ đau. Mà nếu muốn chiến thắng khổ đau, trước hết phải khinh thường khổ đau, phải can đảm nhìn khổ đau tận mặt, phải tuyên chiến với khổ đau. Chúng ta chưa từng thấy ai sợ địch thủ mà chiến thắng được địch thủ bao giờ. Ðừng biến đạo Phật của kiên nhẫn, của quả cảm, của gian khổ, của đại hùng đại lực thành một đạo Phật của cải lương vọng cổ. Những kẻ hèn nhát yếu đuối ấy không đáng được gọi là Tăng sĩ. Người xuất gia phải là những vị đại trượng phu.

Hình bóng của những con người yếu đuối, mắt không dám nhìn thẳng, chân bước ngập ngừng, sợ sệt khổ đau, khúm núm trước quyền lực, cố nhiên không phải là hình bóng của người Tăng sĩ. Hình bóng của người tăng sĩ phải là hình bóng của một Long Thọ, một Huyền Trang, một Vạn Hạnh… đời sống thì đạm bạc, gian khổ, ý chí thì vững chắc như kim cương, đức độ thì khiêm cung, nhẫn nhục, hành nguyện thì rộng lớn như sóng biển. Người xuất gia phải có đôi mắt sáng chiếu niềm tin, chói lòa nghị lực, người xuất gia phải có nụ cười bất diệt khinh thường khổ đau. Có như thế mới biểu lộ chân tướng sáng rỡ của đạo Phật. Mà muốn được như thế, điều thiết yếu trước tiên là nhận thức thực trạng khổ đau, sống trong khổ đau, luyện mình thành sắt thép. Ta có thể chết đuối trong khổ đau, nhưng ta thành Phật cũng nhờ khổ đau. Chính khổ đau, chữa lành khổ đau, và khi đặt vấn đề nhận thức khổ đau làm đệ nhất đế của Tứ Diệu Ðế, Đức Phật quả đã nhận thấy tầm quan trọng của sự thực ấy một cách thâm thiết.

Thả một bè lau – Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán

Đọc sách Thả một bè lau – Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán tại đây.

Mua sách Thả một bè lau – Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du hầu như người Việt Nam trưởng thành nào cũng biết. Từ trước tới nay người đọc vẫn nhìn nhận tác phẩm này dưới góc độ văn học. Qua ngòi bút của thầy Thích Nhất Hạnh, dưới cái nhìn thiền quán, chúng ta nhận thức được một cách sâu sắc nguồn gốc của những khổ đau, hạnh phúc, thành công và thất bại. Từ đó khám phá được bản thân mình. Thả một bè lau, có thể nói là bình giảng hay nhất về truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều cũng là một cách tu hành.

Trích đoạn:

Chữ tài liền với chữ tai một vần là một câu chơi chữ rất khéo. Và mầm mống của những tai nạn, khổ đau kia đến từ đâu? Cụ Nguyễn Du nói đừng đổ lỗi cho ai hết.

Đã mang lấy nghiệp vào thân. Khi mình đã có những tham, giận, kiêu căng trong người rồi, thì Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa. Đừng đổ lỗi cho ai hết, đừng trách Trời. Tại sao mình đau khổ? Mình nói: tại trời, tại xã hội, tại người này, người kia…

Kỳ thực mình chịu trách nhiệm lốn về những đau khổ của mình. Vì vậy mình phải quay về tu sửa tâm mình, vun bồi gốc rễ của cái thiện trong tâm mình. Đó là vấn đề tu tâm (citta bhavana). Thiện căn (kusalamula) là một danh từ Phật học, có nghĩa là gốc rễ của cái thiện.

Cụ Nguyễn Du thấy tu tâm là điều quan trọng phải làm. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Một người có tâm lành, biết tu học thì sẽ hạnh phúc và mang lại hạnh phúc cho người khác nhiều hơn (Bằng ba) những người có tài mà không có tâm lành.

tuyen-tap-sach-cua-thien-su-thich-nhat-hanh

tuyen-tap-sach-cua-thien-su-thich-nhat-hanh

Đạo Bụt nguyên chất

Đọc sách Đạo Bụt nguyên chất tại đây.

Mua sách Đạo Bụt nguyên chất tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Đây là một cuốn sách gồm có 16 bài kinh rất nguyên chất, rất cổ xưa về văn và về nghĩa, được Bụt nói vào những năm đầu khi Ngài mới đào tạo. Những kinh này được dịch từ kinh Nghĩa Túc, phẩm thứ tư của Kinh Tập (Sutta – Nipàta). Kinh Nghĩa Túc hiện có trong tạng kinh Pali và cũng có trong tạng Hán. Bản dịch từ tiếng Phạn sang chữ Hán là công trình của một vị Phật tử cư sĩ tên là Chí Khiêm, thực hiện trong nửa đầu thế kỷ thứ ba. Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch ra tiếng Việt và giảng giải.

Đọc kinh Nghĩa Túc, chúng ta dễ dàng tiếp xúc được với nếp sống tỉnh thức: giản dị mà thảnh thơi của Bụt và tăng đoàn nguyên thuỷ thời Ngài và chư vị thánh tăng còn chưa thành lập các tu viện. Giáo lý của kinh Nghĩa Túc đủ để cho ta thực tập cả đời. Và ta có thể tiếp tục đọc thiên kinh vạn quyển khác mà vẫn thấy tất cả đều là những dòng sông bắt nguồn từ con suối Nghĩa Túc.

Mẹ – Biểu hiện của tình thương

Đọc sách Mẹ – Biểu hiện của tình thương tại đây.

Mua sách Mẹ – Biểu hiện của tình thương tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Ai ở trên đời này mà không từng bị oan ức? Nhưng bị oan ức mà cứ để hận thù chế ngự thì nỗi đau biết đến ngày nào vơi? Bị oan ức nhưng làm thế nào để cởi mở, làm thế nào để giải oan? Ở đời, vì khổ đau người ta chỉ muốn nuôi ý hận thù, muốn trừng phạt kẻ kia bằng những biện pháp bạo động. Nhưng Bụt đã dạy: Hận thù không thể giải tỏa được bằng hận thù. Suối giải oan là suối của từ và của bi. Từ bi là tâm vô lượng, tâm không biên giới, tâm không ngằn mé, có khả năng ôm lấy và dung chứa được mọi loài. Nếu không có chất liệu từ bi thì hận thù sẽ chồng chất từ kiếp này sang kiếp khác.

Mẹ – Biểu Hiện Của Tình Thương giúp ta nuôi lớn tình thương, nuôi lớn tâm từ bi và giải tỏa được hận thù trong ta.

Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức

Đọc sách Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức tại đây.

Mua sách Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Ngay những trang đầu, nội dung của cuốn sách đã được trình bày một cách súc tích, đầy đủ qua một hình ảnh rất đẹp: Hình ảnh của người anh lớn đến kịp lúc để giúp người em giải quyết một vấn đề nan giải trên máy vi tính. Người anh nói: Em ngồi qua một bên, anh làm cho. Người em tức thì cảm thấy vững lòng dù chưa biết vấn đề có được giải quyết ổn thỏa hay không. Người anh lớn đó chính là Đức Bụt trong lòng mỗi chúng ta, là sự hiểu biết sáng suốt của chúng ta. Thầy Thích Nhất Hạnh cũng chính là người anh lớn đó, lúc nào cũng gần gũi, thân thiết và kiên nhẫn. Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thương và tuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.

Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức là một cuốn sách nhỏ, đầy chất thi ca, đầy hình ảnh của Phật giáo cổ truyền được diễn bày bằng ngôn ngữ tâm linh của người Tây phương, điều đó để giúp ta hiểu rằng tất cả mọi vấn đề của thế gian đều mang một ý nghĩa chung: Đó là ý nghĩa tương tức mà Bụt đã dạy, không có gì mà không liên hệ mật thiết với nhau, không có gì là tách biệt nhau. Cho nên đọc cuốn sách này, ta phải đọc cho tất cả mọi người, để tất cả cùng nhau đóng góp xây dựng hạnh phúc cho mỗi người anh em của mình trên Trái Đất này.

Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức (Buddha Body, Buddha Mind) do nhà Parallax ấn hành. Đó là nhà xuất bản mà Thầy Thích Nhất Hạnh và Arnold Kotler lập ra từ năm 1987, bây giờ đã trở thành một cơ quan xuất bản không vụ lợi của Cộng đồng sinh hoạt chánh niệm có nhiệm vụ quảng bá sách của Thầy và các tác giả khác viết về chủ đề Đạo Phật đi vào cuộc đời. Quyển sách này là một tác phẩm về Phật giáo Tâm lý học mới thuộc loại xuất sắc nhất. Và chúng ta không ngạc nhiên khi sách bắt đầu bằng pháp môn thực tập thiền đi.

Thực tập thiền đi chậm một mình, quý vị hãy thử phương pháp này: thở vào và bước một bước, chú tâm hoàn toàn vào gan bàn chân. Nếu quý vị chưa về, chưa tới được một trăm phần trăm thì đừng bước thêm bước nào nữa cả. Cứ đợi cho quý vị về tới giây phút hiện tại được một trăm phần trăm rồi thì mới bước đi bước kế tiếp. Quý vị có thể xài lớn thì giờ như vậy. Và khi quý vị thấy mình đã về đã tới được một trăm phần trăm rồi thì hãy mỉm cười và bước thêm một bước khác.

Bước đi như vậy, quý vị in xuống đất sự vững chãi và thảnh thơi của quý vị. Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức là một cuốn sách tiếp nối công trình, phát huy giáo lý Duy Biểu của Thầy Nhất Hạnh, lấy cảm hứng từ kinh Lăng Già và các bộ luận của tổ Thế Thân, sống vào thế kỷ V.

Cuốn sách trước đó cùng một chủ đề của Thầy là Để hiểu tâm ta (Understanding Our Mind), giảng dạy năm mươi bài tụng Duy Biểu của trường phái Vijnanavada. Trong khi Để hiểu tâm ta là một cuốn sách thuộc loại chuyên môn, đọc khá khó hiểu thì Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức lại là một quyển sách đọc rất dễ hiểu vì Thầy Nhất Hạnh đã có tài năng khéo léo diễn tả được những giáo lý khó khăn thâm diệu trong đạo Phật thành ra dễ hiểu với ngôn ngữ thông dụng của thời đại chúng ta.

Cuốn sách bắt đầu bằng cách dạy thiền đi, không phải là không có chủ ý. Chánh niệm từ trước đến nay đã là trung tâm của những gì Thầy giảng dạy cũng như giữa thân và tâm không có gì ngăn cách. Khi ta thực tập thiền đi, thiền ngồi, thiền lạy, khi ta tiếp xử với nhau, ta sử dụng cả thân và tâm cùng một lúc. Khi nói tới tương tức, đồng thời Thầy cũng đề cập tới sự nhất trí diệu kỳ giữa thân tâm với những phức hợp đa dạng, tương liên, tương quan, khăng khít và bất khả tri của các cơ cấu xã hội trong đó ta đang sống. Những gì Thầy Nhất Hạnh giảng dạy đều chĩa mũi dùi vào những cuồng tín và những ảo tưởng của chúng ta. Dòng tu Tiếp Hiện, thành lập năm 1966, có mười bốn giới mà giới đầu tiên là: Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động. Chúng ta phải nhìn cho rõ để đạt được tuệ giác qua cái sợ của chúng ta, đừng bao giờ không công nhận bất cứ một cái gì đang thuộc về ta và cũng không bao giờ nên cố níu giữ lấy những cái mà ta đã quá tin tưởng là thật, mà thật ra là không thật. Tuệ giác này, trong sách Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức, đã được đề cập tới rất rõ ràng, thấu đáo – một tuệ giác đưa tới thương yêu và bất bạo động: Thiền tập được dựa trên tuệ giác bất nhị – giữa thiện và ác, giữa khổ và lạc, vì vậy, phương pháp xử lý khổ đau luôn luôn là nhẹ nhàng, bất bạo động. Khi ta đã chấp nhận được tính cách bất nhị của thực tại, ta sẽ trở thành bất bạo động một cách tự nhiên. Ta thấy không cần phải đàn áp, xua đuổi cơn giận và nỗi sợ của ta nữa, bởi vì ta thấy cơn giận ấy và nỗi sợ ấy cũng là chính ta, chứ không phải là kẻ thù của ta. Do đó, ta sẽ đối xử với chúng một cách nhẹ nhàng êm dịu. Sẽ không còn có sự xung đột nữa. Chỉ còn lại sự thực tập để chăm sóc và chuyển hóa. Thầy Nhất Hạnh miêu tả lục–ba–la–mật như sáu kỹ thuật tạo nên hạnh phúc. Ba–la–mật có nghĩa là từ bờ bên này đi qua bờ bên kia. Tôi có cảm tưởng là khi dạy về lục độ, Thầy luôn luôn nhấn mạnh tới nhẫn ba–la–mật và tinh tấn ba–la– mật nhiều hơn. Nhẫn (ksanti) đối với Thầy là kiên nhẫn và không loại trừ, tinh tấn (virya) là chuyên cần, siêng năng. Nếu không siêng năng vượt bậc thì làm sao Thầy tạo dựng và nuôi dưỡng được từng ấy tăng thân xuất gia và tại gia ở Tây phương, làm sao Thầy viết được từng ấy cuốn sách, làm sao có thể cứ tiếp tục đi giảng dạy khắp nơi trong suốt mấy mươi năm trời và làm sao chịu đựng nổi bốn mươi năm lưu đày viễn xứ? Thầy mới được phép về lại quê xưa lần đầu cách đây chỉ có hai năm! Hơn thế nữa, nếu không chuyên cần và chịu đựng, làm sao Thầy kiên trì tranh đấu cho hòa bình và đối diện được với khổ đau trên thế giới trong suốt mấy mươi năm với hiểu biết và tình thương mà không hề thối chí như thế? Nhẫn nhục đi đôi với tinh tấn. Nhẫn nhục, theo Thầy, là thực tập để làm cho trái tim ta ngày càng lớn rộng thêm ra. Cũng như mục sư Martin Luther King Jr. dạy về agape trong Kitô giáo, Thầy dạy: Nhẫn nhục là ôm lấy tất cả trong tình thương của mình mà không loại trừ bất cứ ai. Trong tình thương đích thực, ta không còn kỳ thị nữa, dù người ấy là da đen, da trắng hay da vàng, dù người ấy theo đạo Hồi, theo đạo Bụt, theo đạo Do Thái hay theo chủ nghĩa gì đi nữa, mình cũng chấp nhận tất cả mà không còn kỳ thị. Nhẫn nhục ở đây có nghĩa là không kỳ thị. Thầy Nhất Hạnh nhìn đạo Bụt như con đường tu tập để trở thành một con người toàn vẹn, bước đi trên Trái Đất một cách an lạc, tạo dựng được hòa bình. Cách sống này vượt lên khỏi mọi tôn giáo và mọi ý thức hệ, cho tình người là cao cả hơn hết. Tuy nhiên, Thầy cũng nói rằng các tôn giáo lớn phải có trách nhiệm đưa tín hữu của họ vào con đường nhân bản này. Tôi thấy nhà Riverhead vừa ăn mừng kỷ niệm ngày xuất bản cuốn Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời (Living Buddha, Living Christ) bằng một ấn bản thứ mười của cuốn sách ấy – một tác phẩm được xem như nền tảng chung của cả Phật giáo lẫn Kitô giáo. Với một bài tựa của học giả Elaine Pagels, cuốn sách này cũng là một viên đá nền tảng khác cho Phật pháp tại Tây phương, bây giờ đây còn thích ứng với thời cuộc hơn cả mười mấy năm về trước, khi nó mới được xuất bản lần đầu. Tinh hoa của cuốn này, cũng như của bao nhiêu cuốn sách khác của thiền sư Nhất Hạnh, là đối thoại và chia sẻ, cái mà thế giới chúng ta đang thực sự cần đến hơn bao giờ hết, cho tất cả các tôn giáo trên thế giới. Làm thế nào để tự nuôi dưỡng mình và nuôi dưỡng truyền thống tôn giáo của mình? Thầy viết: Khi Phật tử và Kitô hữu tới với nhau, họ nên ngồi xuống ăn với nhau một bữa cơm có chánh niệm. Ăn cơm như thể là cử hành bí tích thánh thể. Thực tập ăn cơm trong chánh niệm như thế, mỗi bữa ăn đều có thể trở nên bữa ăn cuối cùng (the Last Supper). Thật ra, ta có thể gọi đó là bữa ăn đầu tiên (the First Supper), tại vì sau khi ăn một bữa ăn như thế, tất cả mọi cái đều trở thành mới tinh và tươi mát.

Nẻo về của Ý

Đọc sách Nẻo về của Ý tại đây.

Mua sách Nẻo về của Ý tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Đọc Nẻo Về Của Ý ta như được thưởng thức một bài thơ tuyệt đẹp, trong bài thơ ấy hiện lên những nét vẽ đầy thơ mộng về cảnh núi rừng, ở trong đó cũng chứa đựng nguồn tuệ giác thâm sâu có được từ chính những trải nghiệm trong cuộc đời thực của tác giả với những nhân vật có thực. Bằng một ngòi bút nhẹ nhàng, khoáng đạt, đầy yêu thương, tác giả nắm tay ta cùng bước trên những thảm cỏ xanh quanh chân núi rồi từng bước một, cùng ta đi rất thảnh thơi, an lạc theo vòng xoắn ốc lên tới tận đỉnh núi. Trên đường đi ngập tràn những kỳ hoa dị thảo, người bộ hành vừa đi vừa chơi, vừa thưởng thức những vẻ đẹp xung quanh và khi lên tới nơi mới ngỡ ngàng là mình đang ở trên đỉnh núi, vui sướng, khỏe nhẹ và bình an.

Đọc Nẻo Về Của Ý ban đầu ta thấy thích thú với những chuyện kể đời thường, vừa bình dị vừa sống động và dí dỏm. Qua những cái bình dị đời thường ấy, tác giả đã chỉ cho ta thấy ánh sáng chói ngời của chân lý tối thượng.

Cuốn sách này sau khi được cô Mobi Warren dịch ra tiếng Anh đã được các độc giả Tây Phương đón nhận một cách nồng nhiệt. Chỉ trong vòng năm năm, từ khi cuốn sách được dịch ra tiếng Anh, nó đã được dịch ra 12 thứ tiếng khác, tính đến nay nó đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Cô Rachel Neuman, biên tập viên của nhà xuất bản Parallax, trong lúc ngồi trên máy bay từ New York tới San Francisco đã đọc hết bản dịch của cuốn Nẻo Về Của Ý và nói đây là tác phẩm cô yêu thích nhất của tác giả Thích Nhất Hạnh.

Sen nở trời phương ngoại

Đọc sách Sen nở trời phương ngoại tại đây.

Mua sách Sen nở trời phương ngoại tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Kinh Pháp Hoa là một kinh rất nổi tiếng, có thể nói là một kênh nổi tiếng nhất của đạo Bụt Đại Thừa. Tư tưởng tôn xưng kinh Pháp Hoa là vua của tất cả các kinh đã có từ lâu. Chính nhờ kinh Pháp Hoa mà đạo Bụt Đại Thừa trở thành một cơ sở có căn bản, có truyền thống và biến thành một Giáo hội thực sự với việc tuyên thuyết hai thông điệp chính:

– Tất cả chúng sinh đều có thể thành Bụt.

– Chỉ có một con đường tu học duy nhất là Phật thừa.

Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sinh buổi ban đầu. Chủ đích quan trọng nhất của chư Bụt là hướng dẫn chúng sinh đi vào con đường Phật thừa, tức là con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của Bụt. Vì vậy mà triết lý này được gọi là Khai tam hiển nhất, hay là Hội tam quy nhất, nghĩa là gom cả ba cái lại để đưa về một cái. Ðiều đó làm cho kinh Pháp Hoa trở thành Diệu Pháp.

Với Sen nở trời phương ngoại, Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ không giảng từng đoạn kinh Pháp Hoa như nhiều người khác đã làm, mà chỉ đi vào từng Phẩm, tóm lược nghĩa chính của từng Phẩm, khai triển, và diễn dịch những điều căn bản trong từng Phẩm, để quý vị độc giả có được một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Riêng Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát tức là Phẩm Phổ Môn, Phẩm thứ 25, vì là Phẩm được nhiều người tụng đọc nhất trong toàn bộ kinh Pháp Hoa, nên Thiền sư sẽ giảng với nhiều chi tiết hơn. Thêm vào đó, Người cũng sẽ đưa ra một số đề nghị để đóng góp cho sự hoàn bích của đóa hoa đẹp nhất trong Vườn kinh điển Đại Thừa này.

Nghệ thuật thiết lập truyền thông

Đọc sách Nghệ thuật thiết lập truyền thông tại đây.

Mua sách Nghệ thuật thiết lập truyền thông tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Nghệ thuật thiết lập truyền thông là tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một trong những vị thiền sư có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến cộng đồng tu tập Thiền trên toàn thế giới – nêu ra sự cần thiết của việc thiết lập truyền thông, trao đổi, giải tỏa những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người với nhau, và với cả bản thân mình. Từ đó, Thiền sư đề xuất các phương cách tạo lập truyền thông: thiền đi, thở, ôm trong chánh niệm; cách kiềm chế, chuyển hóa cơn giậ để mỗi người có thể lắng nghe cha mẹ, đồng nghiệp, và bản thân mình; hiểu rõ những khổ đau mà người khác phải chịu đựng, từ đó chữa lành những tổn thương trong quá khứ, vui sống với hiện tại, vị tha, bao dung hơn với mọi người. Hạnh phúc sẽ tỏa sáng khi con người hiểu biết và yêu thương nhau hơn.

Chúng ta thường cho rằng truyền thông là những gì chúng ta viết hay nói. Tuy nhiên dáng dấp của chúng ta, sắc diện của chúng ta, giọng nói, cử chỉ của chúng ta và ngay cả ý nghĩ của chúng ta, tất cả đều là những phương tiện truyền thông. Cũng như một cây cam cống hiến hoa, lá và trái cam tươi tốt, mỗi cá nhân trong cộng đồng cống hiến lời hay, cử chỉ đẹp. Một sự truyền thông không thể nào không có ảnh hưởng. Mỗi khi truyền thông là ta đóng góp hoặc yêu thương hòa hợp hoặc khổ đau đổ vỡ.

Hướng đi của Đạo Bụt cho hòa bình và sinh môi

Đọc sách Hướng đi của Đạo Bụt cho hòa bình và sinh môi tại đây.

Mua sách Hướng đi của Đạo Bụt cho hòa bình và sinh môi tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Mỗi người chúng ta đều có thể đóng góp một cái gì đó cho công việc bảo vệ và chăm sóc hành tinh xinh đẹp của chúng ta. Phải sống như thế nào để con cháu chúng ta có một tương lai tươi sáng, đó là gia tài đích thực ta để lại cho con cháu chúng ta. Lời dạy của thầy Thích Nhất Hạnh.

Khi chúng ta gieo một hạt bắp xuống lòng đất ẩm, khoảng một tuần sau, hạt bắp sẽ nảy mầm và dần dần trở thành một cây bắp con. Ta có thể hỏi cây bắp con:

Bắp ơi, em có nhớ lúc em còn là một hạt bắp không?

Có thể cây bắp con không nhớ, nhưng nhờ quan sát, ta biết cây bắp con đã đến từ hạt bắp. Khi nhìn vào cây bắp, ta không còn thấy hạt bắp, và ta tưởng là hạt bắp đã chết, nhưng kỳ thực hạt bắp đâu có chết, mà hạt bắp đã trở thành cây bắp. Khi chúng ta thấy được hạt bắp trong cây bắp là chúng ta có thứ tuệ giác mà Bụt gọi là vô phân biệt trí.

Vô phân biệt trí là không có sự phân biệt giữa hạt bắp và cây bắp, vì hạt bắp và cây bắp có trong nhau, chúng chỉ là một thứ. Ta không thể tách hạt bắp ra khỏi cây bắp và ngược lại. Nhìn sâu vào cây bắp con, ta có thể thấy được hạt bắp, hạt bắp chỉ thay hình đổi dạng. Cây bắp là sự tiếp nối của hạt bắp.

Nhờ có thiền tập, ta thấy được những điều mà người khác không thấy. Nhờ có quán chiếu, ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa cha mẹ và con cái, giữa cây bắp và hạt bắp. Cho nên chúng ta cần sự thực tập để giúp ta thấy rằng chúng ta tương tức với nhau. Khổ đau của một người là khổ đau của tất cả mọi người. Nếu người Hồi giáo và Cơ Đốc giáo, hay người Ấn Độ giáo và Hồi giáo, người Do Thái và người Palestin nhận ra rằng họ đều là anh em với nhau, khổ đau của bên này cũng là khổ đau của bên kia thì chiến tranh sẽ chấm dứt mau chóng.

Nếu chúng ta thấy được rằng chúng ta và các loài sinh vật khác đều có chung một bản thể thì đâu có sự chia cách hay phân biệt, chúng ta sẽ sống chung hòa bình với mọi loài, với thiên nhiên. Thấu suốt được tính tương tức, ta sẽ không còn phàn nàn, đổ lỗi cho nhau, sẽ không còn bóc lột, chém giết nhau. Chỉ với ý thức sáng tỏ đó mới mong cứu vãn được Trái Đất xinh đẹp của chúng ta. Là người, chúng ta vẫn nghĩ rằng ta và thế giới thực vật và động vật khác biệt nhau, chẳng có gì liên quan với nhau.

Cho nên đôi khi ta bâng khuâng không biết nên đối xử với thiên nhiên như thế nào. Nếu chúng ta hiểu rằng con người và thiên nhiên không thể tách rời nhau thì ta sẽ biết cách đối xử với thiên nhiên như đối xử với chính bản thân mình, với tất cả sự cẩn trọng nhẹ nhàng, với tất cả tình thương yêu, không có sự bạo động.

Cho nên nếu chúng ta không muốn mình bị thương tổn thì không nên làm thương tổn thiên nhiên, vì làm thương tổn thiên nhiên là làm thương tổn chính mình và ngược lại. Chúng ta không biết rằng khi chúng ta gây thiệt hại cho người khác là chúng ta gây thiệt hại cho chính mình. Vì muốn tích lũy của cải mà ta đã không ngần ngại khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, và ta tước đoạt quyền sinh sống của bao nhiêu người đồng loại.

Những áp bức và bất công xã hội đã tạo ra hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, và ta tiếp tục dung túng những tệ nạn xã hội, thản nhiên để chiến tranh leo thang mà không biết rằng khổ đau của con người là khổ đau chung của cả đại gia đình nhân loại. Trong khi bao nhiêu người phải chịu khổ đau vì chiến tranh, vì đói khát, ta vẫn đắm chìm trong những ảo vọng của tiền tài, tưởng rằng có thể tìm đựợc một nơi an toàn cho riêng mình.

Chúng ta cần phải thấy rõ rằng số phận của mỗi người đóng góp vào số phận chung của toàn thể nhân loại. Nếu chúng ta muốn sống bình an hạnh phúc, chúng ta cũng phải giúp cho những loài khác sống bình an hạnh phúc. Một nền văn minh mà trong đó ta phải chém giết và bóc lột lẫn nhau để sống là một nền văn minh không lành mạnh. Muốn có một nền văn minh lành mạnh, tất cả mọi người dân phải có quyền bình đẳng về giáo dục, về công ăn việc làm, có đủ thức ăn, chỗ ở, không khí và nước uống trong sạch. Họ có tự do đi lại và có thể ở bất cứ nơi đâu.

Con người là một phần của thiên nhiên, chúng ta cần ý thức rõ điều này trước khi biết cách tạo dựng một đời sống hòa hợp giữa con người với nhau. Nếu ta vẫn còn tâm độc ác, muốn chia cắt, thì ta phá hủy tính hài hòa nơi con người và nơi thiên nhiên. Chúng ta cần những đạo luật có nội dung từ bi giúp ta biết hành xử nhẹ nhàng với chính bản thân mình và với thiên nhiên, nhờ đó, ta có thể chữa trị được những thương tích và chấm dứt được tình trạng độc ác đối với con người và thiên nhiên.

Chúng ta cần phải học cách sống hài hòa với thiên nhiên, vì chúng ta là một phần của thiên nhiên. Thiên nhiên có thể rất tàn bạo, có thể gây cho ta rất nhiều thiệt hại. Nhưng ta cần phải đối xử với thiên nhiên như đối xử với chính bản thân mình. Nếu chúng ta tìm cách khống chế thiên nhiên thì thiên nhiên sẽ nổi loạn.

Chúng ta phải là những người bạn đầy chân tình đối với thiên nhiên thì chúng ta mới biết cách sử dụng những điều kiện thuận lợi của thiên nhiên để tạo dựng một môi trường sống hài hòa. Điều này đòi hỏi một sự hiểu biết đúng đắn về thiên nhiên. Cuồng phong, bão tố, hạn hán, lũ lụt, núi lửa, sự sinh sôi nẩy nở của những loài sâu bọ độc, tất cả những hiện tượng này gây nguy hại cho sự sống.

Chúng ta có thể dễ dàng ngăn ngừa những tai họa này nếu chúng ta biết nghiên cứu ngay từ lúc đầu địa chất của vùng đất ta đang sống. Nhờ nắm rõ tình hình địa chất, ta có thể có những phương án xây dựng để phòng ngừa, thay vì tìm cách áp đảo thiên nhiên bằng những đập ngăn nước, hay phá rừng và những chính sách thiết bị khác mà cuối cùng chỉ gây thêm tổn hại cho môi trường.

Vì muốn ức chế thiên nhiên mà ta đã sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu, giết hại không biết bao nhiêu loại côn trùng và chim chóc, làm xáo trộn đời sống tự nhiên của muôn loài. Nền kinh tế phát triển gây ô nhiễm môi trường, làm kiệt quệ nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá hủy chỗ cư trú của bao nhiêu loài sinh vật. phát triển kinh tế như thế chỉ đem lợi lộc cho một số ít người, và trong thực tế đã dần dần phá hủy toàn bộ đời sống thiên nhiên.

Vì vậy mà con người trở nên bệnh hoạn, xã hội trở nên bệnh hoạn, thiên nhiên trở nên bệnh hoạn. Ta phải làm gì đây để tái lập sự quân bình? phải bắt đầu từ đâu để tìm cách chữa trị? Bắt đầu từ mỗi cá nhân, hay từ xã hội? Hay từ thiên nhiên? Ta phải làm việc chữa trị trong cả ba lĩnh vực cùng một lúc. Các ngành khác thường chỉ chú tâm đến lĩnh vực riêng của họ. Các nhà chính trị thì nghĩ rằng một xã hội trật tự là cần thiết để bảo vệ con người và thiên nhiên, vì thế, họ khuyến khích mọi người tham gia vào cuộc đấu tranh thay đổi guồng máy chính trị.

Các tu sĩ phật giáo thì giống như những bác sĩ tâm lý trị liệu thấy được vấn đề từ quan điểm tâm lý. Mục đích của thiền tập là để giúp ta tìm lại sự cân bằng trong đời sống. Thực tập thiền trong đạo Bụt là để điều hòa thân và tâm, thực tập hơi thở giúp làm lắng dịu thân tâm.

Cũng như những phương pháp chữa bệnh khác, bệnh nhân được đặt trong một môi trường có những điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục lại sức khỏe. Thông thường, các bác sĩ tâm lý trị liệu để nhiều thì giờ quan sát bệnh nhân, sau đó có những lời khuyên thích ứng với mỗi bệnh nhân.

Cũng có một số bác sĩ biết thực tập như các tu sĩ là biết quán sát bản thân trước, biết nhận diện để vượt thoát được những sợ hãi, giận hờn và tuyệt vọng trong lòng họ. Ða số các bác sĩ khác thì thường nghĩ rằng họ không có vấn đề gì về tâm lý cả. Người tu sĩ, trái lại, luôn nhận diện được rằng là người, họ rất dễ bị sợ hãi, lo âu trấn ngự, nhất là dễ bị ảnh hưởng bởi những căn bệnh trầm kha của thời đại mới.

Người phật tử tin vào mối tương quan mật thiết của mọi cá nhân trong xã hội và môi trường sống, cho nên khi họ lành bệnh là xã hội và môi trường sống cũng lành bệnh, vì vậy mà họ chấm dứt được những lo âu sợ hãi trong lòng. Người phật tử biết rằng chính họ phải bắt đầu sự chuyển hóa trong nội thân thì xã hội và thiên nhiên sẽ tự động chuyển hóa theo. Cho nên, muốn cho xã hội và môi trường sống trở lại lành mạnh, mỗi người chúng ta phải biết cách khôi phục trở lại sức khỏe tinh thần của mình. Khôi phục lại tinh thần lành mạnh không có nghĩa là phải thích ứng với những điều kiện mới của đời sống hiện đại.

Bởi vì đời sống hiện đại không lành mạnh chút nào, thích nghi với đời sống đó chỉ làm mình thêm bệnh hoạn. Những người tìm đến các bác sĩ tâm lý trị liệu đều là nạn nhân của lối sống hiện đại. Lối sống này chỉ làm con người xa cách nhau, gia đình nhân loại bị phân tán.

Cách hay nhất là chuyển về sinh sống ở miền quê, nơi đó, ta được cuốc đất, trồng rau, sản xuất hoa màu, giặt quần áo trên sông, sống nếp sống đơn giản như hàng triệu người nông dân trên thế giới. Muốn việc chữa trị có hiệu quả, ta cần phải thay đổi môi trường sinh sống. Thay đổi guồng máy hoạt động chính trị chưa phải là phương án duy nhất.

Tìm cách tự trấn an mình khỏi những bức xúc bằng lối tiêu thụ bừa bãi cũng không giải quyết được vấn đề. Bởi vì nguồn gốc của mọi tâm bệnh hiện nay đều phát xuất từ sự phát triển quá mức của nền kinh tế, đưa đến nhiều tệ nạn xã hội như là ô nhiễm sinh môi, quá nhiều tiếng ồn, nơi nào bạo động cũng có mặt, và hầu như ai cũng bị áp lực thời gian đè nặng. Muốn chấm dứt tình trạng này thì phải biết phòng bệnh. Khi ta hiểu được trách nhiệm của mình đối với nhân loại thì ta biết giữ gìn cho tinh thần luôn được lành mạnh.

Làm được như vậy cho ta là đồng thời giúp cho người khác không bị bệnh hoạn. Dù ta là ai đi nữa, thầy tu hay thầy cô giáo, bác sĩ trị liệu, nghệ sĩ, thợ mộc, hay là chính trị gia, chúng ta cũng đều là con người như nhau. Nếu chính ta không áp dụng được những gì ta dạy cho người khác trong đời sống hàng ngày thì ta cũng mắc bệnh tâm thần như họ thôi. Nếu ta cứ tiếp tục sống theo lề lối hiện tại thì có ngày ta cũng trở thành nạn nhân của lối sống vị kỷ, đầy sợ hãi và lo âu.

Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới

Đọc sách Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới, tập 1 tại đây.

Đọc sách Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới, tập 2 tại đây.

Mua sách Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới – bộ sách bạn đang cầm trên tay là một món quà đặc biệt quan trọng – hay nói cách khác là một sự trao truyền – từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh trao tặng vào giai đoạn chín muồi của một nhân cách vĩ đại. Bạn sẽ thấy rằng nó là kết tinh tình thương sâu sắc của Thiền sư đối với những người trẻ và sự mong mỏi không ngừng về một nền giáo dục bồi dưỡng tài và đức cho các thế hệ mai sau. Ở mỗi trang, bạn có thể cảm được sự tôn vinh dành cho những con người đang thực hiện sứ mệnh này, thường là âm thầm không ai biết, và khối lượng công việc khổng lồ mà họ gánh vác từng ngày nhằm phục vụ cho công cuộc kiến tạo, chuyển hóa và hàn gắn thế giới của chúng ta từ dưới lên, từ thế hệ này sang thế hệ khác – đó là những người thầy, người cô. Đây cũng đồng thời là tác phẩm được kết tinh từ sự cộng tác đầy cảm hứng với giáo sư Katherine Weare, một nhà giáo dục và cũng là một giáo viên về chánh niệm, người đã có nhiều năm nghiên cứu những tác động của thực tập chánh niệm trong môi trường học đường, và đội ngũ các cây bút cố vấn, những học trò lớn của Thiền sư từ Làng Mai. Cùng nhau họ đã thiết kế một cẩm nang thiền tập mang tính đa diện và rất dễ sử dụng để giúp các thầy cô giáo có thể đem chánh niệm vào lớp học cũng như vào đời sống của chính mình bằng nhiều hình thức.

Bộ sách gồm 2 cuốn: Tập 1 Cẩm nang hạnh phúc, tập 2 Đi như một dòng sông.

Trong cuốn Cẩm nang hạnh phúc thầy Thích Nhất Hạnh và tác giả Katherine Weare sẽ chia sẻ chi tiết về chánh niệm và tỉnh thức. Bởi thế giới đang thay đổi quá nhanh đến nỗi chúng ta không thực sự biết được nền tảng tri thức và kỹ năng nào sẽ là quan trọng nhất mà các thế hệ kế cận cần phải trau dồi. Nhưng điều mà chúng ta có thể biết chắc là muốn sáng tạo, yêu nghề, thích nghi với thời đại kỹ thuật số và học hỏi suốt đời thì người trẻ ở lứa tuổi nào cũng cần phải phát triển kỹ năng sống với giây phút hiện tại. Điều này bao gồm kỹ năng làm bạn với chính mình, tin tưởng những trải nghiệm trong nội tâm và học cách làm chủ môi trường bên trong, gồm thân và tâm của mình, cũng như biết cách thích nghi với môi trường học tập bên ngoài khi tương tác với những người khác.

Đánh thức khả năng sáng tạo và trí tưởng tượng của bản thân trong suốt cuộc đời theo cách thức này là một yếu tố quan trọng dẫn tới thành công và hạnh phúc như tiêu đề của bộ sách. Một trong những nguyên tắc chính ở đây là các thầy cô giáo cần thực tập chánh niệm trong đời sống của chính mình trước khi có thể đưa nó vào lớp học một cách hiệu quả. Nếu bạn làm nghề giáo và mới biết đến phương pháp chánh niệm, bộ sách này sẽ hướng dẫn hết sức chi tiết cách bạn thực tập cho chính mình, cũng như cách bạn có thể đưa nó vào lớp học theo cách riêng của mình để giúp học sinh phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, biết cách chăm sóc cảm xúc và có niềm vui trong khi học. Cần lưu ý rằng không có một phương pháp nào là phù hợp cho mọi hoàn cảnh. Cái hay của cách nhìn này là cho bạn một loạt các lựa chọn để thử nghiệm và trên hết là nhắc bạn nhớ rằng chính sự sáng tạo của riêng bạn, được nuôi dưỡng bởi sự thực tập chánh niệm, sẽ mang đến muôn vàn những cơ hội mới và đầy thú vị. Nói một cách thực tế thì học trò của bạn sẽ là người giúp khơi mở nguồn tuệ giác đó trong bạn. Các em chính là những người thầy chánh niệm vĩ đại nhất của bạn. Điểm hay của phương thức tiếp cận này là nó có thể bắt nguồn từ tình yêu nghề và tấm lòng mong mỏi học trò tiến bộ, được ấp ủ và truyền đạt bởi chính trực giác và kinh nghiệm thực tiễn của bạn; tất cả những điều này đều dựa vào công phu thực tập trong từng thời khắc của bạn. Theo như tôi nghiệm thấy, những băn khoăn, học hỏi, quán chiếu cứ lớn lên không ngừng trên mảnh đất nuôi dưỡng ấy.

Nói với tuổi hai mươi

Đọc sách Nói với tuổi hai mươi tại đây.

Mua sách Nói với tuổi hai mươi tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Thắm thiết và sâu đậm, Nói Với Tuổi Hai Mươi tựa như những lời tâm tình nhẹ nhàng gieo vào lòng độc giả. Chọn lối viết tự sự, Thiền sư Thích Nhất Hạnh mang đến cho bạn đọc một cảm giác ấm áp, chân thành nhưng cũng không kém phần mãnh liệt, sâu sắc.

Những lời chia sẻ của Thiền Sư thấm sâu vào lòng những người trẻ tuổi, khơi gợi những ước mơ hoài bão, khơi dậy sức sống dạt dào trong trái tim của họ, làm bừng cháy những yêu thương. Nói Với Tuổi Hai Mươi tìm thấy điểm đồng điệu trong lời thơ của Tố Hữu: 20 tuổi hồn quay trong gió bão/ gân đang xanh và thớ thịt căng da, và sức trẻ đó phải được tỏa sáng trong tình yêu và trách nhiệm với đất nước, trong lý tưởng và khát vọng, trong tình yêu và cuộc sống của mình.

Đọc Nói Với Tuổi Hai Mươi để thấy rằng cuộc đời vô cùng cao quý và tươi đẹp, và các bạn trẻ, hãy sống sao cho khỏi sống hoài, sống phí, để sức trẻ căng tràn của các bạn sẽ hữu ích cho cuộc đời, cho thế gian và nhân loại.

Đạo Phật của tuổi trẻ

Đọc sách Đạo Phật của tuổi trẻ tại đây.

Mua sách Đạo Phật của tuổi trẻ tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Đạo Phật của tuổi trẻ là tổng hợp các bài giảng của Sư ông Thích Nhất Hạnh cho Gia đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ trong các khóa tu năm 1997, 1998, và 1999 tại chùa Vạn Hạnh, Cali và tại đạo tràng Thanh Sơn, tiểu bang Vermont. Cuốn sách được tạm chia thành các chương riêng biệt để độc giả tiện theo dõi nên không theo thứ tự thời gian.

Gia đình Phật tử là một trong những thành trì cuối cùng mà chúng ta còn giữ được. Gia đình Phật tử có mặt cũng là để bảo vệ cho con em của ta, để ta đừng bị mất mát, đừng đi vào con đường tan rã. Gia đình Phật tử nằm giữa hai bên và có thế đứng cũng như sứ mệnh của nó. Một bên là học đường, một bên là gia đình. Gia đình Phật tử cũng được cấu tạo bởi những thành viên giống như những gia đình khác. Trong đó có người lớn đóng vai trò phụ huynh và có người nhỏ đóng vai trò con em. Mỗi đoàn sinh của Gia đình Phật tử đều có hai gia đình: gia đình tâm linh là Gia đình Phật tử và gia đình huyết thống. Hai gia đình này hỗ trợ cho nhau và sự tu tập của gia đình tâm linh sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho gia đình huyết thống của đoàn sinh.

Tất cả chúng ta đều biết rằng mục đích của Gia đình Phật tử là để nuôi dưỡng đạo đức của mỗi đoàn sinh từ Oanh vũ cho đến Huynh trưởng. Nuôi dưỡng đạo đức để cải thiện nếp sống gia đình, cải thiện nếp sống học đường và cải thiện nếp sống xã hội. Chúng ta phải có một đường lối giáo dục rõ ràng mới có thể làm được điều đó. Ai cũng biết điều đó, nhưng thực sự thì chúng ta đã và đang làm được gì, nhất là trong khi chúng ta rất lẻ loi, không có sự yểm trợ của học đường, không có sự yểm trợ của gia đình? Làm thế nào để có một thế liên kết giữa Gia đình Phật tử và gia đình huyết thống cũng như giữa Gia đình Phật tử với học đường?

Khi một cái cây đã già cỗi thì chúng ta phải biết phương pháp làm cho cái cây đó mạnh mẽ trở lại. Một cái cây có thể có nhiều gốc rễ và nếu chất liệu dinh dưỡng trong lòng đất không đầy đủ thì chúng ta phải làm sao để tăng cường, để bồi dưỡng chất liệu dinh dưỡng đó? Nếu một vài cái rễ dưới đất mà tìm ra được một vùng đất mới có nhiều chất dinh dưỡng thì chính những cái rễ đó sẽ đi xa để mang dinh dưỡng về cho toàn cây và sẽ đem lại sinh lực mới cho cây. Cây là tượng trưng cho một thực tại sinh động, luôn luôn chuyển biến và lớn lên. Khi cái cây ngừng lớn là bắt đầu thoái hóa. Vì vậy ta phải làm mọi cách có thể để cho cái cây Gia đình Phật tử tiếp tục lớn mạnh, đừng để cho nó bị thoái hóa.

Một niềm tin chung

Trên con đường về Đạo Tràng Thanh Sơn sau khi mãn khóa tu ở Omega Institute tại tiểu bang New York, tôi thấy một pano quảng cáo như thế này: Có vấn đề hả? Tại sao không thử cầu nguyện đi? Và cách đó không xa có một pano khác viết: Gia đình nào biết cầu nguyện chung thì không tan rã. Chắc chắn là nhà thờ nào đó đã dựng lên hai tấm bảng ấy. Đó là sự thực tập của những người Tin Lành và những người Cơ Đốc. Họ tin rằng nếu trong gia đình mà mọi người cùng quỳ xuống cầu nguyện thì gia đình đó có cơ hội không bị tan rã, không bị chia năm xẻ bảy. Bởi vậy, tấm bảng đó có ý nói rằng nếu trong gia đình quý vị có những sự lộn xộn, chia rẽ, khổ đau thì quý vị phải thực tập cầu nguyện với nhau mỗi ngày. Cầu nguyện Thượng Đế, cầu nguyện Mẹ Maria, cầu nguyện Chúa Kitô, và phương pháp cầu nguyện có thể gọi là phương pháp gần như duy nhất để thực tập trong giáo lý của Cơ Đốc giáo. Và khi tất cả mọi người trong gia đình có chung một đối tượng để cầu nguyện thì những khó khăn, những khổ đau của gia đình đó cũng sẽ giảm bớt. Gia đình đó có cơ hội được lành lặn và không bị tan rã. Tôi thấy có một phần sự thật trong các phát ngôn ấy. Tại vì khi chúng ta cùng có một niềm tin và biết cùng nhìn về một hướng thì gia đình chúng ta có nhiều cơ hội để tồn tại hơn mà không bị tan vỡ hay chia rẽ. Chúng ta thuộc về truyền thống đạo Bụt, chúng ta cũng có những phương pháp thực tập như tụng kinh, hộ niệm, niệm Bụt. Chúng ta cũng tin tưởng rằng nếu chúng ta biết tập họp gia đình lại để cùng tụng kinh, cùng niệm Bụt thì chúng ta sẽ có cơ hội hàn gắn lại những đổ vỡ, thiết lập lại truyền thông trong gia đình và giữ cho gia đình không bị tan rã. Nhưng ngoài phương pháp tụng kinh, niệm Bụt và hộ niệm ra còn có rất nhiều phương pháp khác mà nếu học được, nắm vững được thì chúng ta sẽ thành công hơn trong sự duy trì liên hệ gia đình và giúp cho gia đình chúng ta được vững chãi và hạnh phúc. Đức Thế Tôn đã dạy rất nhiều pháp môn, chỉ cần mang một vài pháp môn đó ra để thực tập thì chúng ta đã có thể thiết lập được sự vững chãi, sự toàn vẹn của gia đình mình.

Trở về để khám phá Cấu trúc của gia đình Việt Nam có khác với cấu trúc của gia đình Bắc Mỹ, nhưng khi chúng ta đã rời quê hương để sang đó sinh sống thì chúng ta bắt đầu bị ảnh hưởng lối sống của người Bắc Mỹ. Vì vậy chúng ta cũng bắt đầu có những vấn đề như người Bắc Mỹ. Tôi nhớ hồi đồng bào mới bắt đầu di cư sang phương Tây, ở châu Âu cũng như ở châu Mỹ, con cái của chúng ta học rất giỏi ở các trường tiểu học. Các cháu đứng đầu lớp là chuyện thường. Nhưng sự kiện đó chỉ kéo dài được năm hoặc sáu năm thôi và sau đó việc học của các cháu bắt đầu đi xuống. Nhìn cho kỹ thì ta thấy rằng, ban đầu, cấu trúc của gia đình còn rất vững nên em bé an tâm và thành công trong sự học tập. Nhưng khi gia đình bắt đầu bị lung lay, bị ảnh hưởng bởi nếp sống phương Tây, khi người cha, người mẹ, người anh, người chị có những khổ đau mới, cộng với những khổ đau của người xa xứ, thì em bé mất chỗ nương tựa vững chãi từ gia đình, vì vậy em bé không còn học giỏi nữa. Điều này nếu quý vị học về xã hội học, nhân chủng học hoặc từng lưu tâm tới thì quý vị cũng trông thấy. Một vị dược sĩ hành nghề ở Canada cho tôi biết rằng ban đầu thanh niên Việt Nam không vướng vào vòng ma túy và không cần đến thuốc ngủ hay thuốc an thần. Những người mua thuốc ngủ và thuốc an thần toàn là người phương Tây. Nhưng chừng sáu bảy năm sau thì đồng bào ta bắt đầu tới mua thuốc ngủ và thuốc an thần. Điều đó cho thấy rằng chúng ta đã chịu ảnh hưởng bởi lối sống của xã hội phương Tây. Nếp sống tâm linh, nếp sống tinh thần cũng như nếp sống gia đình của chúng ta đã bị ảnh hưởng một cách nặng nề và chúng ta bắt đầu khổ đau, những khổ đau của người phương Tây, cộng thêm những khổ đau đã có sẵn. Trước đó cấu trúc gia đình của người Việt khá vững chãi nhưng sau đó đã từ từ bị lung lay và những chuyện như cha từ con, vợ bỏ chồng hay vợ chồng ly dị nhau bắt đầu xảy ra ở những gia đình người Việt. Ai mà không có ước muốn giữ cho gia đình mình được nguyên vẹn và hạnh phúc? Thế mà mấy ai trong chúng ta làm được chuyện đó, có thể giữ cho gia đình mình được toàn vẹn, hòa thuận và thương yêu? Nếu chúng ta không trở về để khám phá ra những nguyên tắc đạo lý, những phương pháp thực tập ở trong truyền thống tâm linh của chúng ta thì chúng ta không có cách gì để cứu vãn được tình trạng của bản thân và của gia đình. Người trẻ Việt Nam sống ở hải ngoại bây giờ cũng lâm vào tình trạng của người trẻ ngoại quốc và chúng ta không có phương tiện nào để bảo vệ chúng ta cả. Chúng ta nói rằng chúng ta theo đạo Bụt, chúng ta có nếp sống tâm linh. Nhưng điều đó chỉ có thể đúng một phần thôi, nhất là trên phương diện danh từ và lý thuyết. Trên phương diện hình thức, chúng ta là con của Bụt, là học trò, là đệ tử của thầ Đúng như vậy. Chúng ta có chùa tổ ở Việt Nam và chúng ta cũng có ngôi chùa thứ hai ở trong thành phố của chúng ta. Nhưng chưa chắc điều này đã đúng trên phương diện nội dung. Tại vì có thể chúng ta cũng còn cảm thấy bơ vơ, chúng ta cũng không có những phương tiện để bảo vệ bản thân và gia đình của chúng ta

[…]

Gia đình Phật tử là gia đình tâm linh

Mỗi đoàn sinh của Gia đình Phật tử đều có hai gia đình: gia đình tâm linh là Gia đình Phật tử và gia đình huyết thống. Hai gia đình này hỗ trợ cho nhau và sự tu tập của gia đình tâm linh sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho gia đình huyết thống của đoàn sinh. Cho nên trước hết ta phải công nhận là trong ta có những khổ đau. Ta phải ngồi với nhau và phải gọi được tên của những khổ đau đó. Gọi đúng tên của những khổ đau, đó có thể là sự chia rẽ, sự ganh tỵ, sự thù hằn, sự thiếu truyền thông giữa các Huynh trưởng, giữa các đoàn sinh. Khi đã chấp nhận điều này rồi ta mới thấy có nhu yếu cấp bách để chuyển hóa tình trạng đó. Và lúc ấy ta sẽ bắt đầu hé thấy phương pháp. Điều đầu tiên là đừng có tưới tẩm những hạt giống xấu trong nhau, đừng làm cho nhau thêm giận hờn, bực tức, hận thù, ganh tỵ, sợ hãi. Trong ta, người nào cũng có những hạt giống xấu đó hết. Xuất gia hay tại gia đều có những hạt giống xấu trong lòng. Sinh hoạt chung trong một gia đình ta phải cẩn thận đừng tưới những hạt giống tiêu cực nơi người kia. Huynh trưởng đừng tưới cho nhau những hạt giống tiêu cực. Huynh trưởng cũng đừng tưới những hạt giống tiêu cực nơi đoàn sinh.

[…]

Ngày sẽ đẹp hơn

Ta thực tập như vậy và ta chỉ dẫn cho các con, các em ta cũng thực tập như vậy. Rồi một hồi thì chồng ta, vợ ta, cha ta, hay là anh ta sẽ thấy sự thay đổi. Thấy bây giờ sao ta trầm lặng, không hay nổi giận nữa. Thấy ta biết đi thiền, biết thở. Tự nơi bản thân của người đó sẽ phát sinh ra sự kính phục. Người đó sẽ thấy ta là người biết tu và ta bắt đầu chuyển hóa được tình trạng. Ta cũng có thể tập cho em bé, con của ta. Cháu cũng có quyền có một viên sỏi Hộ Trì. Ta có thể tổ chức một phòng thở ở trong nhà. Mỗi tối trước khi đi ngủ thì hai cha con vào trong phòng đó, ngồi xuống, thỉnh một tiếng chuông, nắm lấy viên sỏi, thực tập thở vào và thở ra. Những lúc đó là những lúc ta không có giận. Thở vào ta nói: Bụt ơi! Thở ra ta nói: Có con ở đây. Cứ thở vào: Bụt ơi! Thở ra: Có con ở đây. Ta tập cho cháu thực tập ba hơi thở với viên sỏi đó rồi mới cho cháu đi ngủ. Còn ta thì mỗi sáng trước khi đi làm, ta vào trong phòng thở, thắp một cây hương, ngồi xuống, thỉnh một tiếng chuông rồi thực tập với viên sỏi đó là một thói quen rất tốt. Các thầy, các sư cô mỗi khi rời Làng đi tổ chức khóa tu thì luôn luôn đi vào thiền đường, thắp một cây hương, thỉnh tiếng chuông, rồi lạy Bụt và lạy Tổ ba lạy trước khi khởi hành. Ta cũng vậy, mỗi sáng trước khi đi làm, đi vào dâng một cây hương, ngồi xuống thỉnh một tiếng chuông, thực tập ba hơi thở, lạy ba lạy rồi mới đi làm. Đó là nếp sống văn minh, có khách hay không có khách tới nhà, ta cũng làm như vậy. Người khách của ta, người Việt hay người ngoại quốc, thấy ta làm như vậy thì họ sẽ thấy nếp sống của ta rất đẹp. Không những người lớn làm phương pháp đó, mà các em bé cũng làm được phương pháp đó trước khi đi học. Vào thỉnh chuông, thở và lạy ba lạy trước khi đi học. Người phương Tây buổi sáng trước khi đi làm thì thường chúc nhau: Have a good day! (Chúc anh có một ngày đẹp). Nhưng đó chỉ là sự chúc tụng chứ chưa phải là sự thực tập. Còn ta bắt đầu một ngày bằng tiếng chuông, bằng ba hơi thở và ba cái lạy thì đó là ta đã thực tập, ta đã bắt đầu một ngày đẹp rồi. Đầu ngày ta đã biết tiếp xúc với tổ tiên tâm linh của ta thì ngày đó chắc chắn sẽ đẹp hơn và nhất là ta có đem viên sỏi đó đi theo, tức là tổ tiên của ta cũng đi theo để bảo hộ ta trong bất cứ trường hợp nào, khi sợ hãi, khi giận hờn, khi khó khăn để giúp ta giữ lòng cho thanh tịnh. Ta thực tập mà người khác đâu có biết ta đang thực tập, họ chỉ thấy ta rất bình tĩnh, rất vững chãi. Giá trị con người ta biểu lộ ra nơi sự vững chãi đó.

Hơi thở nuôi dưỡng hơi thở trị liệu

Đọc sách Hơi thở nuôi dưỡng hơi thở trị liệu tại đây.

Mua sách Hơi thở nuôi dưỡng hơi thở trị liệu tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một kinh thiền tập căn bản của đạo Bụt. Đó là một bản đồ tu tập mầu nhiệm mà Bụt đã khám phá và cống hiến cho chúng ta. Người nào có được bản đồ này trên tay, chắc chắn sẽ không bị lạc đường. Những chỉ dẫn của kinh Quán Niệm Hơi Thở được trình bày trong cuốn sách này rất đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và thiết thực. Đó là cả một kho tàng tuệ giác hết sức thâm sâu. Tiếp xúc được với nguồn tuệ giác ấy thì tất cả những nỗi khổ niềm đau trong ta đều tan biến, hạnh phúc và tự do liền có mặt.

Mời các bạn hãy cùng lên đường cho một cuộc trở về. Trở về với hơi thở ý thức để tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm trong ta và quanh ta. Hãy để cho thân tâm ta được chữa trị, cho những tế bào của cơ thể ta được nuôi dưỡng và chăm sóc bằng chính khả năng phục hồi và trị liệu của tự thân.

Tri kỷ của Bụt

Đọc sách Tri kỷ của Bụt tại đây.

Mua sách Tri kỷ của Bụt tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Chúng ta có phải là tri kỷ của Bụt không? Chúng ta có hiểu được Bụt không? Thật ra người ta đã hiểu lầm Bụt rất nhiều. Không phải chỉ những người ngoài đạo Bụt mà ngay trong chính hàng đệ tử của Bụt cũng hiểu lầm Bụt. Bụt không dạy như vậy nhưng người ta nói Bụt dạy như vậy, rất oan cho Bụt. Ta hiểu lầm Bụt, rồi truyền đạt giáo lý của Bụt một cách sai lạc và kéo theo sự hiểu lầm của cả thế hệ tương lai.

Tác phẩm Tri Kỷ Của Bụt làm sáng tỏ được tinh thần rất đặc biệt của Phật giáo là khi tu tập, tìm hiểu về tư tưởng của đạo Bụt thì chúng ta phải sử dụng sự thông minh, khả năng phán xét quyết đoán độc lập của mình để nhận biết mà đừng vội tin vào bất cứ điều gì đã được ghi chép lại trong kinh. Đó là tinh thần của người học Phật, có khả năng tìm hiểu thấu đáo và phê phán tự do.

Với cái thấy thông suốt và hệ thống hóa, với tinh thần nghiên cứu và phê phán tự do, chúng ta có thể thanh lọc được toàn bộ kinh điển và có thể phục hồi được tư tưởng đích thực của đức Thế Tôn, để có thể trở thành tri kỷ của Bụt.

Bồ Tát tại gia – Bồ Tát xuất gia

Đọc sách Bồ Tát tại gia – Bồ Tát xuất gia tại đây.

Mua sách Bồ Tát tại gia – Bồ Tát xuất gia tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Chúng ta có thể nói rằng kinh Duy Ma là kết quả của một cuộc vận động phản kháng chủ nghĩa xuất gia. Đạo Bụt không phải chỉ dành cho những người xuất gia, chán cõi đời này nên đi tìm sự an lạc Niết bàn cho cá nhân. Đạo Bụt là con đường mở ra cho tất cả nhân loại, cho tất cả các loài được hưởng.

Trong kinh Duy Ma, ta thấy quan điểm về Tịnh độ và quan điểm về thế giới được trình bày một cách rất rõ rệt. Kinh Duy Ma chú trọng đến cuộc sống hiện thực chứ không nhắm tới sự trốn tránh khổ đau trong một cõi Niết bàn nào khác. Cõi Tịnh độ đẹp đẽ hay khổ đau; những hoàn cảnh đó, những y báo đó, đều do nhân cách của con người định đoạt. Tâm của mình như thế nào thì thế giới của mình như thế đó. Tất cả tùy thuộc vào cách sống của mình trong ngày hôm nay. Nó là Tịnh độ, nó là Ta bà, nó là an lạc, nó là khổ đau, nó là giải thoát, nó là phiền trược, đều tùy thuộc vào thái độ và nhân cách của mình, tùy thuộc ở nhận thức của mình, và cách sống hàng ngày của mình trong hiện tại. Vì vậy mình không cần trốn chạy, mình chỉ cần thay đổi tâm của mình, chỉnh lý tâm của mình, gạn lọc tâm của mình thì thế giới nào cũng là Tịnh độ cả.

Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngày

Đọc sách Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngày tại đây.

Mua sách Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngày tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Qua cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Hòa thượng Thích Huyền Quang đáng kính đã hết sức nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ứng dụng các giáo lý nhà Phật vào thế giới đương đại của chúng ta. Bằng niềm tin vững chắc, cuốn sách cho thấy tính khả dĩ vượt thời gian của Phật giáo trong việc điều hướng xã hội đương đại cùng tất cả những vấn đề phức tạp của nó. Từ giáo dục, y tế, chính trị, kinh tế, cơ cấu xã hội đến đời sống cá nhân và các vấn đề gia đình, hai tác giả nhiệt tình ủng hộ tích hợp các giáo lý sâu sắc vào Phật pháp.

Phật tử Việt Nam nhìn rõ thực tại tâm lý, kinh tế và xã hội của thời đại và áp dụng giáo lý đạo Phật một cách thông minh vào đời sống mới, không bị ràng buộc bởi thành kiến và thói quen. Đức Phật là một bậc Đại Đạo Sư, thâm hiểu những điều kiện tâm lý, kinh tế và xã hội con người của thời đại Ngài. Đức Phật đã truyền dạy những giáo lý thích hợp với con người của thời đại ấy. Giáo lý của đức Phật phù hợp với các điều kiện sinh hoạt tâm lý, kinh tế và xã hội của con người cho nên được gọi là một giáo lý khế cơ. Trong suốt lịch sử của Phật giáo, ta thấy xuất hiện nhiều hệ thống giáo lý mới phát xuất từ Phật giáo Nguyên thủy, như giáo lý Tịnh độ, giáo lý Thiền, giáo lý Duy thức, giáo lý Thiên thai, Những giáo lý này vừa khế hợp với căn bản đạo Phật vừa khế hợp với những điều kiện tâm lý và xã hội của con người đương thời. Phật giáo là một tôn giáo không bảo thủ, biết cởi mở và khai phóng để mở rộng chân trời tương lai.

Tuy cởi mở, khai phóng và tiến bộ như thế, đạo Phật vẫn không bị lạc gốc, cũng vẫn tiếp tục được truyền thống từ bi, khoan dung, vô úy và giải thoát. Thái độ bảo thủ vì thói quen, vì thành kiến và cố chấp là một thái độ trái ngược với tinh thần cởi mở và tiến bộ của đạo Phật. Người Phật tử không thể nhắm mắt làm theo tất cả những điều mà người xưa đã làm, lấy cớ xưa bày nay làm.

Người Phật tử phải xét xem những điều do người xưa bày ra hiện còn có giá trị trong hoàn cảnh hiện tại hay không. Nếu còn thì ta vẫn tiếp tục thi hành. Nhưng nếu những điều ấy không còn giá trị nữa thì ta phải bỏ và tìm ra những điều khác thích hợp với ta hơn. Ngày xưa khi còn tại thế, đức Phật và các môn đệ cùng thời với Ngài đã áp dụng pháp chế khất thực chẳng hạn. Ở các nước Tây Tạng, Trung Hoa và Nhật Bản trong suốt 10 thế kỷ, tăng sĩ ít khi thực hành pháp chế trì bát khất thực đó, tại vì điều kiện phong thổ và tập quán ở các nước này khác với Ấn Độ thuở xưa. Như thế không có nghĩa là Phật giáo các nước đó chống với Phật giáo và Ấn Độ. Như thế chỉ có nghĩa là Phật giáo tại các nước đó đã biết chuyển biến để khế hợp với những điều kiện sinh hoạt tại các nước đó mà thôi. Lấy ví dụ ấy mà xét thì nếu ta muốn cho đạo Phật có sinh khí, ta phải biết áp dụng đạo Phật một cách thông minh vào những điều kiện sinh hoạt tâm lý, kinh tế và xã hội của đời sống chúng ta. Đạo Phật không phải là của riêng của một số người ẩn dật nơi tự viện. Đạo Phật là của mọi lớp người: của thiếu nhi, của thanh niên, của phụ nữ, của lao động trí thức và lao động chân tay.

Đạo Phật chỉ có sinh lực khi nào giáo lý đạo Phật được áp dụng trong đời sống hằng ngày, trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, chính trị, kinh tế tổ chức, trong đời sống cá nhân cũng như trong đời sống gia đình, quốc gia và xã hội. Người Phật tử phải đặt những câu hỏi tương tự như sau đây: Trong một xã hội mà con người bị lôi cuốn theo guồng máy kinh tế và chính trị đến nỗi khó có thể bảo tồn tự do và nhân tính của mình, đạo Phật dạy con người áp dụng thái độ nào và hành động gì để khôi phục tự do và nhân tính ấy? Đối với những cuộc chiến tranh diệt chủng và tàn phá sinh mệnh và giá trị con người, đạo Phật dạy ta hành động thế nào? Trước hiểm họa mà nhân loại đang phải đương đầu, đạo Phật dạy ta con đường nào để có thể tự cứu? Nếu đạo Phật không trả lời được những câu hỏi như thế, thì ta không thể nói rằng đạo Phật là đạo của sự sống. Kỳ thực, người Phật tử tin rằng trong đạo Phật có hàm chứa những nguyên lý căn bản có thể trả lời được mọi vấn đề của sự sống; và do đó, đem những nguyên tắc kia áp dụng vào đời sống cá nhân và xã hội hiện tại, ta sẽ tìm thấy những câu trả lời thích hợp. Bản thân ta và sự sống của ta chính là môi trường thực nghiệm, từ đó được tìm ra những câu giải đáp, gọi là Đạo Phật Ứng Dụng. Những điều kiện sinh hoạt tâm lý, kinh tế và xã hội luôn luôn thay đổi cho nên mỗi thời đại và mỗi địa phương cần có một đạo Phật ứng dụng thích hợp. Thành kiến và thói quen thường khiến cho người ta sợ hãi sự đổi thay và sự sáng tạo. Đạo Phật là một đạo sống động, do đó cần sự đổi thay và sáng tạo liên tục. Phật tử đừng để cho thành kiến và thói quen bó buộc. Phật tử cần luôn luôn nhận định lại về sự sống để mà thực hiện những thay đổi và sáng tạo cần thiết làm cho đạo Phật luôn luôn là một đạo sống động chứ không khô chết trong những cái vỏ hình thức và thiếu sinh khí.

Trò chuyện với Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Hạnh phúc đích thực

Đọc sách Trò chuyện với Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Hạnh phúc đích thực tại đây.

Mua sách Trò chuyện với Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Hạnh phúc đích thực tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

*Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những đại thiền sư nổi tiếng nhất thế giới, tác giả của hàng trăm cuốn sách, trong đó, rất nhiều cuốn được xếp hạng bestsellers như An lạc từng bước chân, Phép lạ của sự tỉnh thức, Chúa ngàn đời, Bụt ngàn đời. Ông là một văn nhân, một thi nhân, một học giả và cũng là một người đấu tranh cho hòa bình bằng phương pháp bất bạo động. Năm 1967, khi đề nghị Hội đồng Nobel trao giải Nobel Hòa bình cho thiền sư Thích Nhất Hạnh, mục sư nổi tiếng người Mỹ Martin Luther King đã phát biểu: *Ông thầy tu mảnh khảnh xuất thân từ Việt Nam này, ngài là một học giả uyên thâm. Những phát kiến cho hòa bình của ngài, nếu áp dụng được, sẽ dựng nên một tượng đài cho tinh thần hòa đồng, tình huynh đệ và nhân bản._

Thiền sư chính là người thành lập dòng tu tiếp hiện, hành trì theo lý tưởng Đạo phật đi vào cuộc đời với phương pháp thực tập chánh niệm được xây dựng căn bản trên 14 giới tiếp hiện. Phương pháp thực tập chánh niệm của thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới vì thực hành đơn giản nhưng kết quả lại vô cùng sâu sắc. Chỉ cần đem tâm trở về với thân bằng chú ý hơi thở và chú tâm vào những hành động hằng ngày, chúng ta có thể từ từ chuyển hóa và trị liệu nhiều vết thương trong ta và những người khác bằng lòng từ và tâm thương yêu.

Cuối năm 2013, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã tổ chức chuyến hoằng pháp đạo Phật dọc nước Mỹ, kéo dài suốt hai tháng với hàng trăm buổi thuyết pháp, hàng chục khóa tu tại rất nhiều địa danh nổi tiếng như Đại học Harvad, Ngân hàng Wold bank, Công ty Google, Facebook. Nhà báo Hoàng Anh Sướng đã theo chân thiền sư trong suốt cuộc hành trình đó và đã thực hiện cuộc trò chuyện này với rất nhiều tâm huyết và niềm hứng khởi._

Trái tim mặt trời

Đọc sách Trái tim mặt trời tại đây.

Mua sách Trái tim mặt trời tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Thiền tập của đạo Bụt khởi nguyên từ đời sống hàng ngày của đức Thế Tôn và cũng được nếp sống ấy hàm dưỡng từng ngày. Truyền thống thiền tập của đạo Bụt sở dĩ sinh động và phong phú như ngày nay là do đã được nuôi dưỡng liên tục bởi nhiều thế hệ thiền giả trong hai ngàn sáu trăm năm qua. Với sự hiểu biết tường tận và kinh nghiệm sống thiền dào dạt của mình, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã mở toang cánh cửa đi vào nếp sống thiền hùng vĩ ấy để chúng ta có thể thừa hưởng được suối nguồn tuệ giác đạo Bụt.

Thiền trong Trái Tim Mặt Trời là một nếp sống sống động. Nếp sống ấy đặt nền tảng trên sự hiểu biết tường tận và trung thành với Phật giáo Nguyên thủy, nếp sống ấy thừa hưởng được sự thăng hoa và cởi mở của Phật giáo Đại thừa, nếp sống ấy hơn thế nữa, còn thể hiện sự hòa quyện mầu nhiệm giữa suối nguồn tuệ giác đạo Bụt với nền triết học hiện đại và các khám phá mới nhất của khoa học thế giới.

Qua Trái Tim Mặt Trời, Thiền sư sẽ đưa nhịp thở mong manh của trái tim bạn hòa làm một với nhịp thở hùng tráng của mặt trời.

Thiền sư Khương Tăng Hội

Đọc sách Thiền sư Khương Tăng Hội tại đây.

Mua sách Thiền sư Khương Tăng Hội tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Thiền sư Khương Tăng Hội là một cuốn sách của Thầy Thích Nhất Hạnh, nói về cuộc đời và quá trình tu tập của thiền sư Tăng Hội – Tổ sư của Thiền Tông Việt Nam.

Mới hơn mười tuổi thì cả cha và mẹ đều qua đời, và thầy được nhận vào chùa làm chú tiểu. Sa di Tăng Hội đã được học kinh Phật bằng tiếng Phạn và cũng đã được học chữ Hán. Lớn lên, thọ GIỚI LỚN, không những thầy tinh thông Phật học mà cũng tinh thông cả Nho học lẫn Lão học.

Sự nghiệp thiền sư Tăng Hội rất lớn lao. Nhờ vào những trước tác của thầy, ta biết được hành tướng của sự thực tập thiền tại trung tâm Luy Lâu (Việt Nam) và tại trung tâm Kiến Nghiệp (Trung Quốc) ngày xưa. Tư tưởng Thiền của thầy Tăng Hội là tư tưởng thiền Đại Thừa, đi tiên phong cho cả tư tưởng Hoa Nghiêm và Duy Thức. Tuy nhiên, thiền pháp của thiền sư Tăng Hội rất thực tiễn, không hề để thiền giả bay bỗng trong vòm trời lý thuyết. Căn bản của thiền pháp này vẫn là sự thực tập hơi thở ý thức và pháp quán chiếu về bốn lĩnh vực hiện hữu gọi là tứ niệm xứ và các pháp quán tưởng căn bản đã được nêu ra trong các thiền kinh nguyên thỉ. Nhân cách của thiền sư Tăng Hội là một nhân cách vĩ đại. Ta chỉ cần đọc bài kệ mà Tôn Xước, một người trí thức trong hoàng gia Đông Ngô đề lên tranh tượng của thầy sau đây thì đủ thấy được nhân cách ấy:

Lặng lẽ, một mình,

đó là khí chất,

tâm không bận bịu,

tình không vướng mắc,

đêm đen soi đường,

lay người thức giấc,

vượt cao, đi xa,

thoát ngoài cõi tục.

Hồi đó ở miền bờ biển Nam Ấn Độ, có hai trung tâm nổi tiếng của đạo Bụt đại thừa. Một trung tâm gọi là Amaravati. Một trung tâm gọi là Nagarjunakonda. Từ những trung tâm đạo Bụt đại thừa ở miền duyên hải Ấn Độ, đạo Bụt được truyền sang Việt Nam bằng đường biển. Việc này đã xảy ra từ thế kỷ thứ I (trước công nguyên). Trong thế kỷ đi theo, tức là thế kỷ thứ I (sau công nguyên), đạo Bụt đã tiếp tục đi vào Việt Nam. Đạo Bụt đã đi vào Việt Nam bằng đường hàng hải do các nhà buôn đem tới. Hồi đó đế quốc La Mã rất cần những hàng hóa, hương liệu như quế, tiêu, lụ Các thương gia Ấn Độ không có đủ những thứ ấy để cung cấp cho đế quốc La Mã. Vì vậy cứ đợi mùa có gió đông nam thì họ thả thuyền đi về hướng Việt Nam. Mỗi khi đi tới rồi thì họ ở lại để buôn bán. Và phải đợi cho đến năm sau, khi có gió mùa thì họ mới xuống thuyền về nước. Trong thời gian cư trú ở các nước Đông Nam Á như Việt Nam, cố nhiên là họ phải thực tập tôn giáo của họ. Do chính nguyên cớ đó mà người Việt thời đó mới biết đến đạo Bụt. Thường thường khi đi buôn, các thương gia Ấn Độ đem theo những cái tháp Bụt tượng trưng cho xá lợi của Bụt. Họ đốt nhang, đốt trầm, đọc kinh, tụng tam quy và ngũ giới. Vì vậy cho nên qua thời gian họ lưu lại Việt Nam, người Việt đã biết tới đạo Bụt. Và cùng với đạo Bụt các thương gia Ấn cũng đem theo những cái khác nữa. Ví dụ như niên lịch, cách thức canh tác, thuốc men, phương pháp trị liệu, và cách quan sát tinh tú của Ấn Độ. Vì vậy về thiên văn, y khoa, niên lịch, cũng như phương pháp canh tác, người Việt chúng ta đã học được của Ấn Độ rất nhiều.

Nước ta hồi đó chưa có tên là Việt Nam. Việt Nam hồi đó có tên là Giao Chỉ. Giao, đúng ra có nghĩa là giao tiếp. Tại vì địa bàn Việt Nam hồi đó là môi giới giữa hai nền văn hóa. Văn hóa Ấn Độ và văn hóa Trung Hoa. Có những nước nằm dưới ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, trong đó có Giao Chỉ. Hồi đó ta theo văn hóa Ấn Độ. Từ thần thoại, cho đến canh nông, cho đến chiêm tinh, cho đến niên lịch, chúng ta đều áp dụng của Ấn Độ cả. Sau này, khi nước ta bị nhà Hán xâm chiếm, dân ta mới bắt đầu tiếp thu những yếu tố của văn hóa Trung Hoa. Nước ta trước đó đã có tên là Nam Việt. Rồi từ Nam Việt đổi thành Giao Chỉ, sau đó được đổi thành Giao Châu. Giao có nghĩa là giao tiếp. Hiện giờ, người ta còn gọi chung các nước Lào, Cam–pu–chia và Việt Nam là Indo–China (Ấn Độ – Trung Quốc). Cái tên này cũng có cùng một ý niệm đó, nghĩa là vùng đất nằm giữa hai nền văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Có người nói chữ Giao có nghĩa là giao long. Vì thấy người Việt ngày xưa xăm mình và tự nhận mình là con cháu của rồng, họ nghĩ đất đai của con cháu rồng phải gọi là Giao Chỉ. Nhưng thật sự chữ Giao ở đây có nghĩa là giao tiếp. Chỉ có nghĩa là địa chỉ, địa bàn hoặc là vùng đất. Vùng đất nằm ở khoảng giao tiếp giữa hai nền văn hóa. Giao Chỉ sau đổi thành Giao Châu khi chúng ta bị nội thuộc nhà Hán. Hồi đó nước ta là một thuộc địa của nhà Hán. Chúng ta bắt đầu bị nhà Hán cai trị vào năm 111 trước công nguyên. Bị đô hộ gần một ngàn năm mà ta không bị đồng hóa. Trong thời gian đó có nhiều cuộc nổi dậy giành độc lập. Nhưng những cuộc nổi dậy ấy chỉ thành công trong một thời gian thôi rồi bị đàn áp. Một lần có hai chị em tên là Trưng Trắc và Trưng Nhị đứng dậy, làm cách mạng, và chiêu tập binh mã đánh lại nhà Hán. Đó là từ năm 40 đến năm 43. Hai chị em đánh thắng được quân đô hộ và lập được nền độc lập tự chủ trong vòng ba năm.

Trước đó Giao Chỉ có tên là Nam Việt. Dòng dõi cai trị nước Nam Việt hồi đó là nhà Triệu. Có nhiều đời vua: Triệu Vũ Vương, Triệu Văn Vương, Triệu Minh Vương, Triệu Ai Vương và Triệu Dương Vương. Đến năm 111, Nam Việt bị nhà Hán xâm chiếm. Lúc đó ta mất tên Nam Việt, và trở thành một bộ của nhà Hán gọi là bộ Giao Chỉ. Bộ Giao Chỉ hồi đó đất rất rộng. Tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây bây giờ cũng thuộc về bộ Giao Chỉ. Đảo Hải Nam cũng thuộc về bộ Giao Chỉ. Và cố nhiên là miền bắc và phần bắc của miền Trung bây giờ cũng thuộc về bộ Giao Chỉ. Trong lịch sử, ta thấy có nhiều khi ta đã muốn qua đòi lại những đất đó. Trước khi có nước Nam Việt thì đã có nước Âu Lạc. Nước Âu Lạc là do hai nước Thục và Văn Lang nhập lại mà thành. Văn Lang là tên đầu của nước Việt Nam. Văn tức là văn vẻ, đẹp. Còn Lang nghĩa là hiền lành, như là ông thầy thuốc. Thời Văn Lang, có nhà Hồng Bàng. Hồng Bàng là con chim lớn, con chim vĩ đại. Và thời nước Âu Lạc thì ta có nhà Thục. Có nhiều truyền thuyết xảy ra trong thời Hồng Bàng: bánh chưng, bánh dày, trầu Có những chuyện xảy ra trong thời Âu Lạc như Trọng Thủy Mỵ Nương.

Nhà Thục là một nước ở gần Văn Lang. Hồi đó, nước Văn Lang yếu nên mới bị nhà Thục qua chiếm. Họ gom Thục và Văn Lang lại làm thành một nước gọi là nước Âu Lạc. Văn hóa hồi đó cũng còn rất đặc thù, và nằm dưới ảnh hưởng văn minh Ấn Độ. Âu có thể là Âu Cơ, người đàn bà tượng trưng cho chim. Lạc là con chim lạc. Có những tài liệu trong Hậu Hán Thư chứng tỏ là trong thời đại nhà Triệu, khi quốc hiệu còn là Nam Việt, ta thường đi qua mua những dụng cụ canh nông bên nhà Hán. Bắt đầu sang nhà Triệu thì văn minh ta đã có yếu tố Trung Quốc. Từ khi nước ta bị nhà Hán đô hộ thì văn hóa Trung Quốc mới bắt đầu được đưa qua nhiều. Trong thời đó có hai nhà văn hóa Trung Quốc là Tích Quang và Nhâm Diên. Hai nhà văn hóa này nỗ lực dạy chữ Hán cho người Giao Chỉ. Hai người cũng khá dễ thương. Lúc đó là thế kỷ thứ I sau công nguyên. Tích Quang và Nhâm Diên bắt đầu đưa phương pháp canh tác của Trung Hoa áp dụng vào Giao Châu. Những nghi lễ như đi cưới, dạm ngõ, đi hỏi, đám bắt đầu được học từ người Hán. Trước đó thì ta sử dụng các tập tục của Ấn Độ. Chính ngay trong thế kỷ đầu đã có cuộc nổi dậy của hai chị em Bà Trưng. Trong 200 năm trước công nguyên, Trung Quốc được gọi là nhà Tây Hán. Sau công nguyên thì là nhà Đông Hán. Và chính trong thời đại nhà Hán, đạo Bụt từ Ấn Độ được truyền sang Việt Nam, và truyền trực tiếp chớ không phải truyền sang ngõ Trung Quốc. Có rất nhiều người nghĩ rằng đạo Bụt ở Việt Nam lúc bắt đầu là từ Trung Quốc đưa xuống, nhưng sự thực thì ngược lại. Đạo Bụt được truyền sang Việt Nam trước. Rồi trong những thế kỷ đầu của Tây lịch, đạo Bụt từ Việt Nam lại được truyền sang Trung Quốc.

Đi gặp mùa xuân – Hành trạng Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Đọc sách Đi gặp mùa xuân – Hành trạng Thiền Sư Thích Nhất Hạnh tại đây.

Mua sách Đi gặp mùa xuân – Hành trạng Thiền Sư Thích Nhất Hạnh tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Đức Trưởng lão Hòa thượng – Thiền sư Thích Nhất Hạnh một bậc danh Tăng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Trong suốt cuộc đời hành đạo và hoằng pháp của mình, Thiền sư đã mang lời dạy của đức Bụt đến gần hơn với mọi người thông qua những phương pháp về thực tập chánh niệm, tỉnh thức. Bằng sự dung hòa các truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, Phật giáo Đại thừa, và các phát kiến của ngành Tâm lý học đương đại phương Tây, Thầy đã thiết lập cách tiếp cận hiện đại đối với thiền. Ngài được vinh danh như một lãnh đạo tinh thần của Phật giáo có sức ảnh hưởng chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma tại phương Tây.

Không chỉ có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực hướng dẫn thiện tập, Thiền sư Nhất Hạnh còn là một nhà hoạt động hòa bình với đường lối bất bạo động. Sinh thời, ngài từng được đề cử giải Nobel Hòa bình. Thiền sư là một bậc thầy khả kính, một nhà thơ, nhà văn với những tác phẩm mang lại rất nhiều lợi lạc cho người đọc. Gần trăm năm hiện hữu trên cuộc đời, Ngài dành trọn thời gian của mình để phụng sự nhân sinh và Đạo pháp.

Đức Đạt Lai Lạt Ma từng tán thán về Thiền sư Nhất Hạnh: Hầu hết mọi sự cống hiến của ngài trong việc chia sẻ với những người khác, cho thấy sự sống trong chánh niệm và với lòng từ bi không những góp phần vào sự an trú trong nội tại, mà còn phản ánh cách thức các cá nhân có thể dùng chánh niệm xây dựng hòa bình cho thế giới, Thiền sư đã sống một cuộc đời đầy trọn vẹn và tràn đầy ý nghĩa

Như Đức Đạt Lai Lạt Ma từng nhận định, Thiền sư đã sống một cuộc đời trọn vẹn và ý nghĩa. Vậy cuộc hành trạng về cuộc đời của Ngài như thế nào, những đóng góp cụ thể của Thiền sư dành cho nhân loại ra sao? Xin mời quý vị độc giả cùng đón đọc Đi gặp mùa xuân – hành trạng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, từng dòng chữ, từng câu văn như một phương tiện để đưa người đọc tương phùng với mùa xuân của bản môn, với Thiền sư và những chặng đường hoằng hóa. Càng đọc, ta càng hiểu hơn về Thầy, về đạo Phật dấn thân, và pháp môn Làng Mai mà Thầy đã dày công tạo dựng.

Thiền hành yếu chỉ

Đọc sách Thiền hành yếu chỉ tại đây.

Mua sách Thiền hành yếu chỉ tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Qua những bài viết ngắn trong tập sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh hướng dẫn rất cụ thể, tỉ mỉ cho độc giả về việc thiền hành, cũng như lợi lạc to lớn mà thiền hành mang lại. Thực tập thiền hành một cách nhẫn nại, bền bỉ sẽ làm cho đời sống có một phẩm chất khác biệt; khi in được những dấu chân thanh thản, vô ưu trên mặt đất này, chính là chúng ta đang bước đầu thực hành lối sống bất bạo động, như thể chúng ta đang chuyển hóa bản thân, cũng là góp phần chuyển hóa cho mẹ Trái Đất và hành tinh trở nên một nơi chốn mà hòa bình và chính nghĩa có thể hiện diện.

Đạo Phật hiện đại hoá

Đọc sách Đạo Phật hiện đại hoá tại đây.

Mua sách Đạo Phật hiện đại hoá tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Trong những trang sâu sắc của cuốn sách này, Thiền sư tôn kính Thích Nhất Hạnh đã bàn luận về một thách thức vang dội qua thời gian, từ kỷ nguyên khai sinh cho đến từng nhịp đập của ngày nay: sự phát triển của Phật giáo giữa thời hiện đại. Quan điểm sâu sắc của tác giả là: Để Phật giáo soi sáng con đường của cuộc đời, nó phải nắm lấy bản chất của hiện đại hóa. Chính nhờ sự biến đổi then chốt này của thời cuộc mà Phật giáo có thể bộc lộ những tặng ân thiêng liêng, vĩnh cửu và siêu việt hùng vĩ trong đó. Cuốn sách này là một lời kêu gọi chân thành để diễn giải lại và thổi hồn cuộc sống đương đại vào trí tuệ vượt thời gian của Phật giáo, đảm bảo rằng sự phát quang của Phật pháp sẽ dẫn đường cho chúng ta ngày nay và trong những tháng ngày sắp tới.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là bậc danh Tăng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Trong suốt cuộc đời hành đạo và hoằng pháp của mình, Thiền sư đã mang lời dạy của đức Bụt đến gần hơn với mọi người thông qua những phương pháp về thực tập chánh niệm, tỉnh thức. Bằng sự dung hòa các truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, Phật giáo Đại thừa, và các phát kiến của ngành Tâm lý học đương đại phương Tây, Thầy đã thiết lập cách tiếp cận hiện đại đối với thiền. Ngài được vinh danh như một lãnh đạo tinh thần của Phật giáo có sức ảnh hưởng chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma tại phương Tây.

Hiện đại hóa đạo Phật đã không phải là thế tục hóa đạo Phật mà còn là bồi dưỡng và phát triển giá trị xuất thế của đạo Phật để đạo Phật có đủ năng lực giác ngộ, đưa đường chỉ lối cho cuộc đời. Hiện đại hóa đạo Phật đòi hỏi một mặt là công trình tu chứng, một mặt là công trình khảo sát về thực trạng của cuộc đời, để thực hiện công cuộc hành đạo đem đạo Phật vào cuộc đời. Công trình trước có tính cách xuất thế, công trình sau có tính cách nhập thế và giữa hai công trình có những tương quan mật thiết. Phải hiện đại hóa đạo Phật nếu chúng ta muốn đạo Phật có thể đóng góp thiết thực và hữu hiệu vào công cuộc xây dựng xã hội chúng ta.

Hiện đại hóa đạo Phật tức là khai triển những tiềm lực của đạo Phật mà chúng ta biết, như ở trong trường hợp Việt Nam và ở nhiều nước Á châu, là rất phong phú và có thể biến cải một cách tốt đẹp tình trạng hiện thời của đất nước. Tiềm lực ấy sẽ không có tác dụng nào cả nếu không được khai triển. Sự tiêu hoại dần dần các tiềm lực ấy chứng tỏ sự suy đồi của bản chất đạo Phật; hiện đại hóa đạo Phật tức là vừa duy trì vừa phát triển chúng. Nói một cách khác hơn, đạo Phật phải được thường xuyên hiện đại hóa nếu muốn còn là đạo Phật. Nhờ có những cuộc cách mạng giáo lý và giáo chế xuất hiện trong lịch sử mà sinh lực đạo Phật đã được tiếp nối từ thời đại này sang thời đại khác. Những giai đoạn suy trầm nhất trong lịch sử đạo Phật đã được tiếp nối từ thời đại này sang thời đại khác. Những giai đoạn suy trầm nhất trong lịch sử đạo Phật là những giai đoạn thiếu khai triển, thiếu sáng tạo, nói tóm lại, thiếu công trình hiện đại hóa. Hiện đại hóa để được sống mãi, để được linh động mãi, để đừng bị chết khô trong hình thức và khuôn khổ.

Muốn tiêu diệt đạo Phật thì cũng không cần đàn áp, bởi vì có thể càng bị đàn áp sức sống của đạo Phật càng vươn mạnh. Muốn tiêu diệt đạo Phật thì phải tiêu diệt sinh khí đạo Phật. Mà muốn tiêu diệt sinh khí đạo Phật thì chỉ cần khen ngợi, khuyến khích tinh thần ỷ lại, bảo thủ, thói quen ôm ấp hình thức và sợ hãi thay đổi, sợ hãi sáng tạo. Bởi vì bất cứ sự thay đổi hay sáng tạo nào cũng hàm chứa những đớn đau của thời kỳ sinh nở. Trong một bài báo có nhan đề Nói chuyện về vấn đề đóng góp, chúng tôi đã có dịp nói rõ rằng chúng tôi tin đạo Phật.

tuyen-tap-sach-cua-thien-su-thich-nhat-hanh

tuyen-tap-sach-cua-thien-su-thich-nhat-hanh

Truyện Kiều văn xuôi cho người trẻ

Đọc sách Truyện Kiều văn xuôi cho người trẻ tại đây.

Mua sách Truyện Kiều văn xuôi cho người trẻ tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Truyện Kiều là tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của nền Thi ca Việt Nam. Người trẻ nào trong thời gian học Trung học cũng có dịp được nghe về Truyện Kiều và học một ít về Truyện Kiều. Nhưng vì Truyện Kiều là một tác phẩm cổ điển và lại có nhiều điển tích cho nên đối với người trẻ, thưởng thức hết được cái hay của Truyện Kiều là một chuyện không dễ.

Vì vậy tôi đã có ý cống hiến Truyện Kiều Văn Xuôi như một lời mời mọc những người trẻ trở về thưởng thức những cái hay, cái đẹp của Truyện Kiều. Đọc xong Truyện Kiều Văn Xuôi, người trẻ sẽ thấy thoải mái khi trở về với nguyên tác bằng thơ.

Rong chơi trời phương ngoại

Đọc sách Rong chơi trời phương ngoại tại đây.

Mua sách Rong chơi trời phương ngoại tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Niết bàn có nghĩa là giải thoát, là tự do. Ta đâu cần phải chết đi mới có được cái cảm giác giải thoát và tự do đó.

Nhiều người nghĩ rằng Niết bàn (Nirvãna) là một cảnh giới hạnh phúc mà người chứng đạo được đi vào sau khi chết. Không có sự hiểu lầm nào tai hại hơn thế. Bụt đã dạy rất nhiều lân về Hiện Pháp Niết Bàn, nghĩa là về Niết Bàn trong hiện tại. Nếu ta có khả năng buông bỏ được những phiền não như đam mê, hận thù và ganh tị, nếu ta buông bỏ được những cái thấy sai lầm về sinh diệt, có không, tới đi … thì ta có thể tiếp xúc được với Niết bàn trong giây phút hiện tại.

Người xuất gia và người tại gia đều có khả năng tiếp cận Niết Bàn qua đạo để ngay trong hiện tại. Vì vậy nên ta có thể nói: Không có con đường nào đưa tới Niết bàn, Niết bàn chính là con đường.

Tập kinh Rong chơi trời phương ngoại gồm 2 phần: phần 1 Kinh văn gồm 36 bài kệ và phần 2 là bình giảng.

Ngay bài kệ thứ 1 đã nhắc đến từ Nhẫn. Trong chúng ta có tâm hành sợ hãi; chúng ta sợ những tai nạn, những mưu mô ác độc xâm phạm tới mình. Sống trong sự sợ hãi, chúng ta không thể nào có hạnh phúc. Ngay trong câu đầu, Bụt đã dạy cho chúng ta sống như thế nào để đừng sợ hãi và cảm thấy an toàn. Đó là bước đầu đi vào Niết bàn. Bởi Niết bàn trước hết là sự an ổn.

Lần lượt các tham, sân, si, những điều cản trở con người hướng tới cuộc sống an nhiên tự tại dần dần được hóa giải: bệnh (vô bệnh tối lợi: không bệnh là cái lợi tức lớn nhất), đói (cơ vi đại bệnh – đói là cái bệnh khó chịu đựng nhất), tâm nan (mỗi chúng ta đều có thói quen và chính thói quen đó xúi đẩy chúng ta nghĩ, nói và làm), chư khổ pháp (những hiện tượng đem tới khổ đau như vô minh, buồn giận, đam mê, lo lắng, u sầu và sợ hãi), nếp sống (hành tịnh vô hà uế – sống thanh tịnh, hướng thiện) …

Bài kệ thứ 36 đúc kết lại:

sống thanh tịnh, vượt thoát được thời gian,

Thì cả hai giới thiên nhân đều nghiêng mình kính nể.

Ta đi vào chùa lạy Phật, má nói với ta trong chùa có Phật. Chỉ có vào chùa mới gặp được Phật, ta đem nào nhang, nào đèn, nào chuối, nào cam lên chùa cúng Phật. Chỗ ta đi tìm Phật là trong chùa; nhưng khi lớn lên, ta thấy không đúng như vậy. Trong chùa, chỉ có tượng Phật, ta tìm ra sự thật rằng Phật ở trong lòng.

Kinh Rong chơi trời phương ngoại là một phẩm của Kinh pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê Hoàn là Niết bàn (Nirvãna, Nibbana). Trời phương ngoại là cái không gian vượt ra ngoài không gian, chữ Hán gọi là thiên ngoại thiên hay phương ngoại phương. Rong chơi trời phương ngoại là đi chơi trong thế giới không gian ngoài không gian. Trong không gian này không có sinh, không có diệt, không có tới, không có đi, không có còn, không có mất, không có ta, không có người, không có sự phân biệt kỳ thị. Không gian đó bao la vô cùng, gọi là Niết bàn.

Hạnh phúc mộng và thực

Đọc sách Hạnh phúc mộng và thực tại đây.

Mua sách Hạnh phúc mộng và thực tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Hạnh phúc là gì? Tại sao những ý niệm của bạn về hạnh phúc lại lắm khi giam hãm bạn trong cực cùng khổ luỵ? Tại sao hạnh phúc lại quá đỗi mong manh? Có thứ hạnh phúc nào bền vững, an ổn và không tiềm ẩn những hệ lụy? Hạnh phúc đích thực là gì? Làm thế nào để có thể đạt được hạnh phúc đích thực ngay trong hiện tại?

Với Hạnh Phúc Mộng Và Thực, thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ tặng cho bạn những gợi ý thú vị để bạn có thể khám phá một cách tường tận diện mạo địch thực của hạnh phúc.

Người vô sự

Đọc sách Người vô sự tại đây.

Mua sách Người vô sự tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Tuệ giác không phải là kiến thức khái niệm. Tuệ giác có khả năng mang tới sống động và tư do trong giấy phút hiện tại. Kiến thức không làm được việc ấy.

Cuốn sách gồm hai phần chính: Phần Lâm Tế Lục và phần bình giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Trong đó, Lâm Tế Lục không phải là một tác phẩm do tổ Lạm Tế viết ra, mà là những lời dạy vào buổi chiều, gọi là Khai thị của Tổ, được đệ tử là pháp sư Tuệ Nhiên ghi chép lại. Lâm Tế Lục kêu gọi chúng ta trở về sống cuộc đời của chính chúng ta một cách đàng hoàng đích thực, đừng phí đời mình trong sự tìm kiếm, dù đó là tìm kiếm Niết Bàn, tìm kiếm chân tâm, tìm kiếm giác ngộ.

Tổ Lâm Tế là một người con có hiếu, và rất thông minh. Tổ xuất gia từ hồi còn nhỏ. Tổ đã được học rất nhiều kinh, luật và luận. Nhưng sau đó, Tổ thấy phong trào học Phật tuy rầm rộ, mà nhiều kẻ tu hành không đàng hoàng, chỉ lo kiếm danh, lợi và địa vị, cho nên Tổ chán và quyết định tu thiền để đạt tới sự chứng ngộ. Có lúc Tổ tuyên bố: Tất cả những gì ta học trong kinh, luật, luận đều vô ích. Làm sao cho mỗi giờ phút trong đời sống hàng ngày, ta sống được cho thật, đừng đánh mất cuộc đời trong sự tìm kiếm học hỏi. Phần lớn những người xuất gia thường đánh mất đời mình trong sự học hỏi, tìm kiếm.

Chúng ta nên nhớ rằng Lâm Tế Lục không phải là một tác phẩm do Tổ Lâm Tế viết ra. Tổ không có mục đích làm ra một tác phẩm. Đây là văn nói. Tổ chỉ dạy buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều. Những đoạn chúng ta đang học đây là nội dung những lời Tổ dạy vào buổi chiều cho nhiều người, gọi là Khai Thị. Đệ tử của Ngài là Pháp Sư Tuệ Nhiên đã ghi chép lại. Tiếc là thầy Tuệ Nhiên không ghi hôm nay là ngày mấy, lúc mấy giờ chiều, năm mấy. Chúng ta chỉ biết rằng Tổ nói những lời ấy vào buổi chiều, còn buổi sáng thì có những vấn đáp. Tổ thử xem chúng ta tu chứng tới đâu. Nếu tu chứng không đàng hoàng thì Ngài đánh. Lâm Tế Lục kêu gọi chúng ta trở về sống cuộc đời của chính ta một cách đàng hoàng đích thực mà đừng phí đời mình trong sự tìm kiếm, dù đó là tìm kiếm Niết Bàn, tìm kiếm chân tâm, tìm kiếm giác ngộ. Đọc Lâm Tế Lục chúng ta sẽ khám phá ra con người thật của thiền sư Lâm Tế ở trong ta, chứ không phải không.

Nguyên bản của Lâm Tế Lục bắt đầu bằng phần Đối Trị Căn Cơ. Nhưng chúng ta sẽ không bắt đầu bằng phần này mà bắt đầu bằng phần thứ hai, gọi là phần Khai Thị. Tại sao? Tại vì những người chưa biết gì về thiền, về phương pháp của Tổ mà bắt đầu bằng phần Đối Trị Căn cơ thì có thể cảm thấy bối rối, lạc lõng.

Khai Thị có nghĩa là chỉ bày, chỉ bày cho những thiền khách hoặc những đệ tử bằng những ngôn từ rất từ bi. Đọc Lâm Tế Lục, chúng ta sẽ thấy được đức từ bi lớn của Tổ. Có nhiều khi Tổ la mắng: Bọn bay ngu quá, không có đủ niềm tin ở bản thân của mì, lời nói khá nặng, nhưng kỳ thực rất từ bi. Điều đó không khó hiểu gì cả. Nếu ta mở rộng lòng ra thì ta hiểu được tất cả những điều Tổ nói, không có gì là bí hiểm cả. Nó giống như:

Ăn cơm đi!

Dạ, ăn cơm xong rồi.

Vậy thì uống nước đi!

Ngồi chơi đi!.

Rất là đơn giản.

Cho đất nước đi lên

Đọc sách Cho đất nước đi lên tại đây.

Mua sách Cho đất nước đi lên tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Trong chuyến về thăm quê hương mà nay đã thành lịch sử. Từ ngày 12 tháng 1 năm 2005 đến ngày 11 tháng 4 năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Đạo Tràng Mai Thôn đã đi thăm các Tổ Đình và Tự Viện trên khắp ba miền đất nước.

Chỉ với 90 ngày ngắn ngủi đó, trong những giảng đường dù lớn rộng đến đâu nhưng vẫn không bao giờ đủ chỗ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thuyết giảng trên dưới bảy mươi bài, phần lớn dành cho Tăng Ni và Phật tử cư sĩ trong các khóa tu tổ chức tại chùa, nhưng cũng có những bài nói chuyện với nhân sĩ, trí thức đồng bào mọi giới ở bốn thành phố lớn Hà Nội (hai lần), Sài Gòn, Huế và Bình Định.

Bảy bài được in lại trong tập sách này được tuyển chọn từ 70 bài pháp thoại của cả chuyến đi, xếp theo thứ tự thời gian các buổi nói chuyện của Thiền sư tại trụ sở các tổ chức văn hóa, giáo dục, tôn giáo và chính trị ở ba thành phố lớn Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Người nghe là những cán bộ, nhân sĩ, trí thức hoạt động trong các giới chính trị, văn hóa, xã hội và tôn giáo. Ngoài ra cũng có đông đảo khách mời trong và ngoài nước.

Chủ đề của các bài nói dù khác nhau nhưng tựu trung nhà văn hóa Nhất Hạnh đã khách quan trình bày một Phật giáo qua nhãn quan và nhận thức mới từ những kinh nghiệm thực tiễn qua những năm hành đạo của ngài tại các quốc gia Tây phương. Đó là Phật giáo dấn thân, trị liệu và chuyển hóa, là đạo Bụt đi vào cuộc đời mà hơn 40 năm trước ở quê hương, chính ngài đã khởi xướng. Nhưng chúng ta vẫn nhận ra được Phật giáo muôn đời của trí tuệ và từ bi, của hiểu và thương.

Để có được một tình thương đúng nghĩa ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù… khi đó mới có thể thương được thực sự. Hiểu càng sâu thương càng lớn, cả hai giúp ta đạt tới tự do, giải phóng chính mình, có cơ hội tiếp xúc sâu sắc với sự sống trong và quanh ta, thực sự sống trọn vẹn trong từng giây phút hiện tại màu nhiệm, đạt an lạc ngay giữa đời này, vượt trên mọi sóng thăng trầm của biển đời tục lụy, để rồi có thể sang bờ kia, thoát vòng sinh tử.

Gia tài của đạo Bụt Việt Nam tổng hợp của đại thừa và nguyên thủy, của Hiện Pháp Lạc Trú và Tịnh Độ hiện tiền sẽ đưa dân tộc bây giờ cùng đi như một dòng sông, sẽ đẩy đất nước ở đây đi lên.

Để Cho Đất Nước Đi Lên là tựa đề được Thiền Sư chọn và tự tay viết với thư pháp của ngài để làm bìa in cho tập sách này, trân trọng gửi tới các bạn đọc.

Để có một tương lai

Đọc sách Để có một tương lai tại đây.

Mua sách Để có một tương lai tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Trong xã hội có rất nhiều mối nguy. Nếu chúng ta đặt một người trẻ vào xã hội mà không tìm cách bảo vệ họ, họ sẽ tiếp nhận những bạo động, căm thù, sợ hãi và bất an mỗi ngày, rốt cuộc họ sẽ bị bệnh. Những câu chuyện của chúng ta, những chương trình tivi, quảng cáo, sách báo đều tưới tẩm các hạt giống khổ đau nơi những người trẻ và cả những người lớn. Chúng ta cần một vài nguyên tắc, vài phương thuốc cho căn bệnh của mình, những gì lành, đẹp và thật để có thể nương tựa vào.

2.500 năm trước, Bụt đã đưa ra các nguyên tắc cho những người đệ tử tại gia của Ngài để giúp họ sống một đời sống bình an, lành mạnh và hạnh phúc. Đó là Năm Giới và nền tảng của mỗi Giới này là chánh niệm. Với chánh niệm, chúng ta ý thức được những gì đang xảy ra nơi thân thể, cảm thọ, tâm hồn và thế giới quanh ta, cũng như ta tránh không gây tổn hại cho mình và cho người.

Học hỏi và thực tập theo Năm Giới và nương tựa Tam Bảo chắc chắn sẽ mang lại an lạc cho bản thân, cho cộng đồng và cho xã hội. Là con người, chúng ta cần có một cái gì để tin tưởng, một cái gì lành, đẹp và thật, một cái gì mà ta có thể tiếp xúc. Trong quyển sách này, Năm Giới được diễn bày theo hình thức mới, đó là Bảo vệ sự sống, Hạnh phúc chân thực, Tình thương đích thực, Ái ngữ và Lắng nghe, Nuôi dưỡng và trị liệu.

Năm Giới chính là tình thương. Thương có nghĩa là hiểu, bảo vệ và mang lại an vui cho đối tượng thương yêu của chúng ta. Giới không phải là luật lệ mà là những nguyên tắc hướng dẫn giúp ta tập sống như thế nào để có thể bảo hộ cho mình và cho những người xung quanh.

Khi có người hỏi:

Bạn có quan tâm đến bản thân không?

Bạn có quan tâm đến người bạn đời không?

Bạn có quan tâm đến Trái Đất không?

Cách hay nhất để trả lời là hành trì Năm Giới. Đây là cách dạy bằng thân giáo chứ không phải chỉ bằng lời. Nếu bạn thật sự quan tâm, xin hãy hành trì các Giới này để bảo hộ cho mình và cho mọi người, mọi loài khác nữa. Nếu chúng ta thực tập hết lòng thì tương lai sẽ còn có mặt cho chúng ta và con cháu chúng ta.

Giới thứ nhất: Bảo vệ sự sống

Ý thức được những khổ đau do sự giết hại gây ra, con xin nguyện thực tập nuôi dưỡng Tuệ giác Tương Tức và lòng từ bi, để có thể bảo vệ sinh mạng của con người, của các loài động vật, thực vật và môi trường của sự sống. Con nguyện không sát hại, không để kẻ khác sát hại và không yểm trợ cho bất cứ một hành động sát hại nào trên thế giới, trong tư duy cũng như trong đời sống hằng ngày của con. Thấy được rằng tất cả những bạo động do sợ hãi, hận thù, tham vọng và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con nguyện học hỏi thái độ cởi mở, không kỳ thị và không cố chấp vào bất cứ một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều và thiếu bao dung trong con và trong thế giới

Giới thứ hai: Hạnh phúc chân thực

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cắp, áp bức và bất công xã hội gây ra, con nguyện thực tập san sẻ thì giờ, năng lực và tài sản của con với những kẻ thiếu thốn, trong cả ba lĩnh vực tư duy, nói năng và hành động trong đời sống hằng ngày. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do tự mình tạo ra. Con nguyện thực tập nhìn sâu để thấy được rằng hạnh phúc và khổ đau của người kia có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc và khổ đau của chính con, rằng hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có hiểu biết và thương yêu, cũng như đi tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng, giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và tuyệt vọng. Con đã ý thức được rằng hạnh phúc chân thực phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ không đến từ bên ngoài, rằng thực tập phép tri túc con có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại, nếu con có khả năng trở về giây phút ấy để nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà con đã có sẵn. Con nguyện thực tập theo Chánh Mạng để có thể làm giảm thiểu khổ đau của mọi loài trên Trái Đất và để chuyển ngược quá trình nóng lên của Trái Đất.

Giới thứ ba: Tình thương đích thực

Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin nguyện học hỏi theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia đình và trong xã hội. Con biết tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng những liên hệ tình dục do thèm khát gây nên luôn luôn mang tới hệ lụy, đổ vỡ cho con và cho kẻ khác. Con nguyện không có liên hệ tình dục với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức, lâu dài. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và để nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỉ và Xả, tức là những yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực để làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con biết thực tập Tứ Vô Lượng Tâm ấy con sẽ được tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong những kiếp sau.

Làng Mai nhìn núi Thứu

Đọc sách Làng Mai nhìn núi Thứu tại đây.

Mua sách Làng Mai nhìn núi Thứu tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Trung thành với truyền thống cởi mở và không giáo điều của đạo Bụt, Làng Mai luôn mở rộng cửa cho sự thay đổi, cho nên không hề có thái độ giáo điều và cứ khăng khăng cho rằng chỉ có cái thấy của mình là đúng. Có thể cái thấy của mình hôm nay sẽ được thay đổi để nhường chỗ cho một cái thấy sâu sắc và thật dụng hơn trong ngày mai. Đó là sự thực tập thường xuyên để xóa bỏ sở tri chướng và để luôn luôn có cơ hội đi lên.

Những con đường đưa về Núi Thứu

Đọc sách Những con đường đưa về Núi Thứu tại đây.

Mua sách Những con đường đưa về Núi Thứu tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Hương thơm quê mẹ

Đọc sách Hương thơm quê mẹ tại đây.

Mua sách Hương thơm quê mẹ tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Thầy viết thư pháp không chỉ để thưởng lãm mà luôn sáng tạo bằng tinh thân chánh niệm nên nó thật đặc biệt, không chỉ tạo nên những nét chữ đẹp về hình, mà còn chứa đựng năng lượng bình an, tỉnh thức và từ bi của thầy.

Những bức thư pháp trong tập sách này hướng người đọc thưởng lãm đến phương phá thiền tập. Vì thế, xem thư pháp của thầy là một phương pháp để thiền định, một tiếng chuông chánh niệm kêu gọi ta tìm về nguồn cội để an trú thảnh thơi, vượt thoát những mối bận tâm, lao xao thường nhật.

Giọt nước cành dương

Đọc sách Giọt nước cành dương tại đây.

Mua sách Giọt nước cành dương tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Vẫn với văn phong giản dị, Giọt Nước Cành Dương mang đến cho người đọc 15 mẩu chuyện đời thường nhưng mang đậm triết lý Phật giáo. Từ những câu chuyện xoay quanh đời sống tu hành của nhân vật Tôi cho đến những câu chuyện cổ tích và đời thường giản dị dễ hiểu nhưng hàm chứa triết lý sâu sắc, uyên thâm.

Chiếc áo

Có những chiếc áo không bao giờ xấu và cũ. Tôi có một chiếc áo nâu đã sờn rách và bạc màu, nhưng tôi quý hơn tất cả những chiếc áo khác của tôi. Tôi không thấy chiếc áo ấy xấu và cũ một tí nào, trong khi các bạn đồng học đồng tu của tôi gọi nó là chiếc áo ba mươi bảy kiếp khổ hạnh. Suốt thời gian theo học Phật ở chùa Báo Quốc tôi đã dùng chiếc áo kia với một sự ưa thích mặn nồng. Chiếc áo ấy nay đã rách quá, không còn mặc được nữa, nhưng tôi vẫn giữ kỹ bởi vì đó là một kỷ niệm quý giá trong đời xuất gia thiếu niên của tôi.

Tiếng chuông Giao thừa

Biết bao gia đình nghèo đã an toàn khi họ ở lại. Biết bao gia đình giàu có đã tan rã thảm thương vì đi lánh nạn. Đi lánh nạn, những người này lại tìm thấy tai nạn. Nói như lời của dì Tư mà đúng: Thời này, tai ương hoạn nạn đầy đường. Lấy đức mà đo chứ không thể lấy sự giàu có khôn ngoan mà đo được. Có lẽ chiếc áo giáp phòng thân chắc chắn nhất là tâm đức của mình, là sự ăn ở theo lẽ phải của mình. Họa phước đều do con người tự tạo ra, không phải do một sự tình cờ nào đưa đến.

Tình thầy

Đọc sách Tình thầy tại đây.

Mua sách Tình thầy tại đây.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Cuốn sách ghi lại những khoảnh khắc gần gũi, niềm vui và hạnh phúc mà tác giả có được với thầy mình – Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đó là những chuỗi ngày đẹp và thơ, những ngày tác giả được sống gần Thầy với tất cả sự hồn nhiên, vui tươi và trong sáng. Và những kỷ niệm đó không chỉ gói gọn trong tuổi thơ của một thời làm sa di, mà trải dài suốt hành trình trưởng thành trên con đường tu học, trở thành thị giả, cho đến lúc gánh vác công việc trụ trì sau này.

Sau mỗi câu chuyện được kể, ta thấy được tâm tình xúc động của tác giả dành cho người thầy kính yêu với lòng ngưỡng vọng và biết ơn vô hạn, nhận ra những bài học giản đơn nhưng có tác dụng nâng đỡ và nuôi dưỡng sâu sắc, đặc biệt hơn là có cơ hội tiếp xúc với chân dung đời thường của một vị thiền sư lỗi lạc, đầy hiểu biết và thương yêu.

Trên đây là tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, với trí tuệ uyên thâm cùng khả năng diễn đạt phong phú, giàu cảm xúc, các tác phẩm của Thiền sư không chỉ có ý nghĩa về mặt học thuật mà còn đem lại giá trị về tinh thần, giúp người đọc thên minh định ý chí, học hiểu những đạo lý Phật pháp trong đời thường để từ đó áp dụng vào cuộc sống của bản thân.

nhavantuonglai

Share:
Quay lại.

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »
Thích Nhất Hạnh | Trồng một nụ cười (Chương 08)

Thích Nhất Hạnh | Trồng một nụ cười (Chương 08)

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân, khai sáng chánh niệm giúp con người tĩnh tâm, hạnh phúc và hòa hợp với thiên nhiên.

Luôn sẵn sàng hỗ trợ khi bạn cần

Hỗ trợ nhanh

Bạn có thể liên lạc trực tiếp với nhavantuonglai qua số hotline đính kèm dưới đây, hoặc Instagram nếu không thích nghe điện thoại cho bất kỳ vấn đề, rắc rối nào phát sinh trong quá trình đọc lẫn trong cuộc sống của bạn.

Hỗ trợ chuyên nghiệp

Bạn có thể viết thư và gửi theo địa chỉ đính kèm dưới đây trong trường hợp cần trao đổi chi tiết, chuyên nghiệp về vấn đề bản thân, hợp tác đôi bên hoặc bất kỳ thắc mắc nào muốn được trao đổi chi tiết.

Hỗ trợ trực tiếp

Bạn có thể đề xuất buổi hẹn gặp trực tiếp trong trường hợp cho rằng vấn đề cần trao đổi chỉ có thể làm rõ thông qua đối thoại trực tiếp. Hãy liên hệ với nhavantuonglai theo các thông tin đính kèm dưới đây để sắp xếp.

Hotline

+84 88 686 7749

Email cá nhân

info@nhavantuonglai.com

Địa chỉ

Da Nang | Hue