Bản năng bộ lạc cổ xưa đằng sau văn hóa nhân loại
Từ các cuộc săn bắt bộ lạc đến Stonehenge và thời hiện đại, bản năng đồng đẳng giúp loài người phối hợp nỗ lực và học hỏi.
· 8 phút đọc.
Từ các cuộc săn bắt bộ lạc đến Stonehenge và thời hiện đại, bản năng đồng đẳng giúp loài người phối hợp nỗ lực và học hỏi.
Ba bản năng bộ lạc chính
Ba bản năng bộ lạc chính tiến hóa qua các giai đoạn khác nhau của Thời Đồ Đá. Chúng giúp tổ tiên của chúng ta học cách sống của nhóm và hành động theo đó. Theo cách hiểu học thuật hơn, chúng mã hóa các khuôn mẫu nhóm và sau đó thực thi những khuôn mẫu này. Bạn có thể nghĩ về những hệ thống này vừa như một radar liên tục lập bản đồ môi trường xã hội, vừa như một autopilot giúp bạn điều hướng an toàn qua đó.
Bản năng bộ lạc thay đổi trải nghiệm sống nhóm của con người theo nhiều cách. Đầu tiên, chúng thúc đẩy việc tiếp thu kỹ năng đã học. Với bản năng bộ lạc, tôi không phải dựa vào việc tự mình thử và sai, vì tôi có thể học nhiều kỹ năng thông qua quan sát. Nếu tôi thấy một đồng đẳng gõ quả từ cành cao bằng cây gậy, não tôi mã hóa hành động này và khi tôi gặp lại tình huống tương tự, tôi cảm thấy thôi thúc thử làm điều đó. Nếu các thành viên khác trong nhóm thấy tôi làm, họ cũng có thể học kỹ năng theo cách tương tự, và cứ như vậy cho đến khi mọi người trong nhóm đều biết cách làm.
Khi một thực hành trở nên phổ biến trong nhóm theo cách này, nó mang lại những ý nghĩa và chức năng vượt xa giá trị công cụ ban đầu của nó. Đó là điều mà chúng tôi làm. Nó góp phần vào sự đồng nhất trong nhóm và tạo sự khác biệt với các nhóm ngoài, tăng cường cảm giác gắn kết và trung thành. Điều này cũng mạnh mẽ thúc đẩy sự hợp tác. Khi tôi học một kỹ năng qua việc quan sát bạn đồng hành, mã đó được đánh dấu trong đầu tôi là do cả nhóm chia sẻ. Vì tôi biết họ cũng biết, tôi có thể dự đoán hành động của họ, hiểu ý định của họ, và đóng góp bổ sung. Sức mạnh của những điều mà mọi người đều biết đã được khám phá một cách độc lập trong nhiều lĩnh vực khác nhau – các nhà ngôn ngữ học gọi nó là nền tảng chung, các nhà lý thuyết trò chơi gọi là kiến thức chung, các nhà khoa học nhận thức gọi là kiến thức bậc hai, các nhà tâm lý học gọi là siêu nhận thức.
Hệ thống bộ lạc đã thay đổi cuộc sống con người
Hệ thống bộ lạc đầy biến đổi này – được mài giũa qua triệu năm tiến hóa – đã đặt tổ tiên chúng ta vào con đường sống trong những nhóm cực kỳ văn hóa và cực kỳ hợp tác. Có thể bạn đã nghe câu nói quen thuộc của thế kỷ 20 rằng tổ tiên chúng ta chỉ sống trong những nhóm nhỏ toàn người thân, săn bắt và hái lượm một cách nguyên thủy (giống như một bầy tinh tinh) cho đến cuộc cách mạng nông nghiệp khoảng mười nghìn năm trước đã cho phép các cộng đồng định cư lâu dài, sản xuất thặng dư, và có thời gian cho các hoạt động biểu tượng không thiết thực (như xây dựng đền thờ Stonehenge).
Khoa học mới trong thập kỷ qua đã lật đổ câu chuyện này, không chỉ về mặt thời gian mà còn cả sự tiến hóa của loài người. Các nhà khảo cổ đã phát hiện những ngôi mộ hoàng gia và các đền thờ được xây dựng hàng chục nghìn năm trước bất kỳ nền nông nghiệp nào. Các đền thờ mở đường cho nông trại và định cư, chứ không phải ngược lại. Các dấu vết của những cuộc săn bắt quy mô lớn từ hàng trăm nghìn năm trước chứng tỏ sự khởi đầu của các tổ chức cấp độ dòng tộc. Và cách đây cả triệu năm, tổ tiên chúng ta đã kiếm ăn với sự phối hợp vượt xa các loài linh trưởng khác. Những phát hiện này chiếu rọi hành trình nhân loại dưới một ánh sáng mới và cao quý hơn. Từ gần như khi bắt đầu loài người, chúng ta đã là động vật sống theo bầy đàn.
Bản năng đồng đẳng: hệ thống tâm lý đầu tiên của loài người
Những đột phá xã hội của Homo erectus là nhờ vào hệ thống tâm lý đầu tiên này, bản năng đồng đẳng. Đây là một sự thích nghi để sao chép các phản ứng học được từ người khác, đặc biệt là các thói quen được nhiều người khác chia sẻ. Khi hệ thống não này đã có sẵn, người tiền sử bắt đầu mã hóa cách mà những người khác trong nhóm săn bắt, hái lượm, tránh thú dữ, tìm bạn đời, v.v. Họ cũng cảm thấy thôi thúc phải tuân theo những mã này, đặc biệt là khi có mặt các bạn đồng hành để phối hợp trong các hoạt động này. Trong các nhiệm vụ sống còn như tìm kiếm thức ăn và tự vệ, làm việc cùng nhau mang lại lợi ích và giảm rủi ro. Bản năng đồng đẳng giúp con người thời xưa thu hoạch được lợi ích từ hoạt động phối hợp.
Sự tích lũy các mã đồng đẳng này cũng làm cho trải nghiệm của con người về cơ bản trở nên xã hội hơn. Chúng ta ít cô đơn hơn các loài linh trưởng khác vì chúng ta mang theo đồng đẳng trong đầu mình. Chúng ta liên tục được nhắc nhở bởi các mã đồng đẳng về cách mà những người trong nhóm phản ứng điển hình với các tình huống cụ thể. Chúng ta được bầu bạn – và đôi khi cảm thấy ngột ngạt – bởi dòng suy nghĩ không ngừng từ vô thức về những điều gì là bình thường để nghĩ, bình thường để làm, hoặc bình thường để nói trong một tình huống. Các loài linh trưởng khác có thể hợp tác ở mức tối thiểu khi săn bắt cạnh nhau, đôi khi hỗ trợ lẫn nhau, như khi làm con mồi hoảng sợ. Nhưng điều này chỉ xã hội ở mức như trò chơi song song của trẻ nhỏ. Chúng không có sự gắn kết về nhận thức và không làm việc cùng nhau từ một kế hoạch chung.
Chúng ta ít cô đơn hơn các loài linh trưởng khác vì chúng ta mang theo đồng đẳng trong đầu mình.
Mã đồng đẳng và sự kích hoạt trong các tình huống tương ứng
Các mã đồng đẳng xuất hiện tự động trong các tình huống tương ứng, nhờ vào hệ thống liên kết của não bộ. Chúng ta không phải lúc nào cũng tuân theo chúng, nhưng cảm thấy có động lực làm vậy hơn khi có sự hiện diện của bạn bè. Nếu bạn lớn lên ở Mỹ, có lẽ bạn đã mã hóa phản ứng mỉm cười khi chụp ảnh. Nếu vậy, bạn không cần cố gắng mỉm cười; điều đó tự xảy ra một cách tự động, đặc biệt nếu đó là ảnh nhóm. Tuân theo mã văn hóa giúp bạn hòa hợp với người khác, và bạn sẽ trở nên dễ chấp nhận và dễ hiểu đối với họ. Ở Nga, có một mã văn hóa khác: việc giữ nét mặt nghiêm nghị cho một bức chân dung là điều bình thường (đó là lý do tại sao Putin và đồng bọn của ông ấy thường trông nghiêm nghị).
Bản năng đồng đẳng khiến chúng ta nhạy cảm hơn nhiều đối với những người xung quanh so với các loài linh trưởng khác. Khi trẻ mẫu giáo đã học cách giải một câu đố theo một cách nhìn thấy bạn bè giải theo cách khác, chúng có xu hướng chuyển sang phương pháp của bạn bè. Tinh tinh và đười ươi được đặt trong cùng một tình huống không chuyển đổi; chúng giữ nguyên phương pháp đã hiệu quả với chúng trong quá khứ. Monkey see, monkey do không hoàn toàn đúng cho các loài linh trưởng. Chính chúng ta mới là những kẻ bắt chước và người tuân thủ chính yếu.