Bên trong những bộ phim kỳ diệu của Jean Painlevé thời kỳ đầu

Brigitte Berg cung cấp cái nhìn hiếm hoi về sự nghiệp đầu đời của một nhà làm phim tiên phong, người đã phá vỡ mọi ranh giới với sự sáng tạo vô song.

 · 14 phút đọc.

Brigitte Berg cung cấp cái nhìn hiếm hoi về sự nghiệp đầu đời của một nhà làm phim tiên phong, người đã phá vỡ mọi ranh giới với sự sáng tạo vô song.

Brigitte Berg cung cấp cái nhìn hiếm hoi về sự nghiệp đầu đời của một nhà làm phim tiên phong, người đã phá vỡ mọi ranh giới, hòa trộn giữa khoa học và nghệ thuật với sự sáng tạo vô song.

Jean Painlevé: Người đi tiên phong trong thế giới dưới nước

Nhà làm phim người Pháp Jean Painlevé (1902–1989) là một trong những người đầu tiên lặn dưới nước với máy quay và mang thế giới dưới đáy biển lên màn ảnh. Những bộ phim của ông, cũng như cuộc đời ông, vượt qua mọi ranh giới dễ phân loại: Trong khi nhiều nghệ sĩ coi khoa học là một lĩnh vực chuyên môn dành riêng cho các nhà thực hành, Painlevé lại một chân đứng trong phòng thí nghiệm sinh học, chân còn lại trong những vùng nước âm u đầy sinh vật dưới biển, như người phụ trách Marina McDougall, người đã khởi xướng buổi hồi tưởng đầu tiên về sự nghiệp của Painlevé tại Hoa Kỳ vào năm 1991, cho biết. Những người siêu thực cùng thời như Antonin Artaud, Man Ray, Luis Buñuel và Jean Vigo đều ngưỡng mộ tác phẩm của ông.

Bài viết này được trích từ bài luận của Brigitte Berg trong tập sách Khoa học là hư cấu.

Sự nghiệp làm phim đặc biệt của Jean Painlevé

Trong suốt cuộc đời kéo dài gần như cả lịch sử của điện ảnh, Painlevé đã thực hiện hơn 200 bộ phim ngắn, bao gồm Con cá ngựa, Những kẻ ám sát nước ngọt, Ma cà rồng, và bộ phim đẹp kỳ lạ Cuộc sống tình yêu của bạch tuộc. Khi được hỏi làm thế nào ông đạt được hiệu ứng giọng nói rùng rợn của người dẫn chuyện trong bộ phim cuối cùng, Brigitte Berg trong bài viết trích dẫn cho biết Painlevé đã đưa ra lời giải thích hài hước: Ông ấy là một ông già, vì hư vinh nên từ chối đeo kính. Do đó, ông buộc phải dí mặt vào sát kịch bản, gần micro, và người ta có thể nghe thấy tiếng thở của ông vì chứng khí phế thũng.

Chính những chi tiết gần gũi như thế này đã làm cho bài luận tiểu sử của Berg, có thể được đọc đầy đủ trong tập sách Khoa học là hư cấu: Những bộ phim của Jean Painlevé, trở nên hấp dẫn. Dựa trên các tài liệu lưu trữ chưa được công bố và các bức ảnh từ thời gian hợp tác với Painlevé trong những năm cuối đời, Berg mang đến cái nhìn hiếm hoi về cuộc đời và sự nghiệp của một nhà làm phim tiên phong, người đã mang đến màn ảnh những kỳ quan ẩn giấu của thiên nhiên với vẻ đẹp đầy ám ảnh, và người đã hòa trộn và kết hợp hai thế giới tưởng chừng tách biệt giữa khoa học và nghệ thuật theo cách chưa từng ai làm trước đây.

Phim đầu tiên: Trứng cá gai và bạch tuộc

Trứng của cá gai được chiếu trước một khán giả gồm các nhà khoa học tại Viện Hàn lâm Khoa học vào năm 1928 và vấp phải sự hoài nghi gay gắt, nếu không muốn nói là sự phẫn nộ. Một nhà khoa học, tức giận, đã bỏ đi, tuyên bố: Điện ảnh không phải thứ nên được coi trọng!

Đây không phải lần đầu tiên điện ảnh bước vào viện hàn lâm danh giá: Năm 1910, nhà làm phim khoa học người Pháp Dr. Jean Comandon đã trình chiếu một bộ phim về xoắn khuẩn giang mai và nhận phản ứng tương tự. Quan điểm chung của các nhà khoa học và học giả thời đó là điện ảnh là thứ tầm thường, hoặc như nhà văn Georges Duhamel đã nói, giải trí cho những kẻ ngu ngốc.

Phản ứng đối với bộ phim của Painlevé, tuy nhiên, chỉ củng cố thêm quyết tâm của ông. Để thúc đẩy việc sử dụng phim trong khoa học, Painlevé đã cùng với Michel Servanne, người đứng đầu Bảo tàng Giáo dục và Dr. Charles Claoué, một người tiên phong trong phẫu thuật thẩm mỹ, đồng sáng lập Hiệp hội Tài liệu Nhiếp ảnh và Điện ảnh trong Khoa học vào năm 1930. Trong suốt thập niên 1930, hiệp hội đã tổ chức các hội nghị quốc tế, trình chiếu những bộ phim khoa học như Nghiên cứu mới về amip, Phẫu thuật trên vòm miệng,Các tuyến bạch huyết của ếch.

Thách thức từ cả giới khoa học và nghệ thuật

Không chỉ các nhà khoa học hoài nghi về tính hợp pháp của phim khoa học. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn rằng những gì chúng ta thấy trên màn ảnh là sự thật tài liệu? một nhà báo hỏi. Khi một diễn viên đứng trước máy quay, anh ta biến đổi, thay đổi hành vi của mình. Vậy làm sao chúng ta chắc chắn rằng quả trứng của cá gai không bị làm xáo trộn, thay đổi, hay bóp méo bởi máy quay và ánh sáng?

Trong bầu không khí hoài nghi này, Painlevé sau này kể lại cách ông tránh được một thảm họa tiềm tàng. Khi chỉnh sửa bản gốc của Trứng của cá gai, Painlevé vô tình làm cháy phim bằng thuốc lá. Ông vội vàng lắp ráp bản thứ hai cho buổi chiếu tại viện hàn lâm nhưng vô tình đặt một trong những phân cảnh ngược lại. Tại buổi chiếu, nhiều chuyên gia đã tiếp cận ông và yêu cầu xem lại bộ phim. Sau khi thuyết phục họ trở lại vào ngày hôm sau, ông nhanh chóng sửa lại đoạn phim. Những chuyên gia này không bao giờ còn thấy hiện tượng kỳ lạ mà họ đã nhìn thấy trước đó.

Những thành tựu trong nghệ thuật điện ảnh

Dù bị giới khoa học đặt vào tình thế bấp bênh, giới tiên phong nghệ thuật Pháp đã đón nhận tác phẩm của Painlevé ngay từ đầu. Khi bộ phim Caprella và Pantopoda của ông được chiếu tại rạp Les Miracles năm 1930, Fernand Léger gọi đó là vũ điệu đẹp nhất mà ông từng thấy, còn Marc Chagall ca ngợi sự giàu có về hình thái không thể so sánh, gọi đó là nghệ thuật đích thực, không màu mè.

Sau thành công của Trứng cá gai, Painlevé bước vào một giai đoạn sáng tạo mạnh mẽ, thực hiện hàng loạt phim ngắn về hành vi động vật dành cho công chúng.

Sau khi hoàn thành Trứng của cá đuối, Painlevé bắt đầu một giai đoạn sản xuất tích cực, thực hiện một loạt phim ngắn im lặng về hành vi động vật dành cho công chúng. Bạch tuộc, Daphnia,Nhím biển được chiếu tại những rạp như Studio des Ursulines và Studio Diamant trước buổi chiếu chính. Một số người trong khán giả háo hức chờ đợi phim chính nên đã boo; nhưng cũng có những người nhiệt tình như nhà phê bình nổi tiếng Elie Faure: Những bộ phim khoa học của Jean Painlevé cho thấy cuộc sống nhảy múa và lấp lánh của một con muỗi, gợi nhớ đến sự quyến rũ của Shakespeare và cho phép ta thoáng thấy sự phấn khích của một nhà toán học lạc lối trong âm nhạc im lặng của những phép toán vô hạn.

Trong bộ phim Cua đế năm 1929, Painlevé lần đầu tiên thêm nhạc nền. Thông qua Robert Lyon, chủ sở hữu của địa điểm hòa nhạc danh tiếng Salle Pleyel, Painlevé đã gặp nhà soạn nhạc Maurice Jaubert, người đã cung cấp một bản nhạc cho bộ phim. Jaubert chọn một tác phẩm của Vincenzo Bellini. Painlevé sau này sẽ thừa nhận rằng ông đã thích một bản nhạc được viết riêng cho bộ phim hơn.

Khi Jean Vigo đến Paris vào năm 1932 để quay Zero de conduit – bộ phim sau đó bị Hội đồng Kiểm duyệt Pháp cấm, có lẽ vì mô tả khắc nghiệt về các thể chế tư sản Pháp – Painlevé đã giới thiệu Vigo với Jaubert, người sau đó đã sáng tác nhạc cho bộ phim của Vigo. Trong một cảnh quay, Jaubert đã ghi âm nhạc như bình thường, sau đó phát ngược lại, tạo ra một hiệu ứng mơ mộng.

Với việc sử dụng một máy quay đặc biệt, mỗi khung hình của Bạch Tuyết đã được quay ba lần với ba bộ lọc màu khác nhau. Quá trình hoàn thành bộ phim mất đến ba năm vất vả.

Bị mê hoặc bởi kết quả và hài lòng với sự sáng tạo của mình, Painlevé đã yêu cầu Jaubert sáng tác một bản nhạc gốc mà ông sẽ sản xuất bộ phim xung quanh. Như vậy, Bạch Tuyết đã ra đời. Từ bản opera buffa dài 13 phút của Jaubert, dựa trên câu chuyện về Bạch Tuyết và những người vợ bị giết của anh, nhà điêu khắc René Bertrand, được sự hỗ trợ của vợ và ba đứa con nhỏ, đã tạo ra hàng trăm hình nộm bằng đất sét mà sau đó được hoạt hình và quay phim. Với việc sử dụng một máy quay đặc biệt – được André Raymond điều chỉnh từ một máy Pathé cũ – mỗi khung hình đã được quay ba lần với ba bộ lọc màu khác nhau và sau đó được phát triển theo phương pháp Gasparcolor. Bạch Tuyết đã mất ba năm vất vả để hoàn thành.

Vào năm 1938, tại buổi chiếu công khai đầu tiên của Bạch Tuyết, Painlevé bắt đầu phần giới thiệu của mình bằng cách tri ân Emile Cohl và Georges Méliès, những người phát minh ra phim hoạt hình, cả hai đều đã qua đời trong năm đó, chủ yếu bị lãng quên.

Painlevé thường ủng hộ công việc của người khác, đặc biệt chú ý đến những bộ phim đối mặt với kiểm duyệt của chính phủ. Một trong số đó là Tàu chiến Potemkin của Sergei Eisenstein, ghi lại cuộc cách mạng không thành công năm 1905 chống lại sa hoàng Nga. Được coi là tuyên truyền Cộng sản, bộ phim bị các quan chức châu Âu đánh giá là có tính chất lật đổ và bị kiểm duyệt. Do đó, khi Painlevé và người bạn của mình, nhà làm phim tài liệu Joris Ivens, chiếu bộ phim ở Amsterdam, họ đã cử lính canh đứng ở cửa rạp để theo dõi cảnh sát. Khi cảnh sát đến, Painlevé và Ivens đã nhanh chóng dừng chiếu, cầm cuộn phim và, cùng với khán giả, chạy đến một rạp chiếu khác. Ở đó, việc chiếu phim cũng bị cảnh sát làm gián đoạn. Nhóm đã phải di chuyển thêm lần nữa. Trong suốt một buổi tối, nhóm đã di chuyển tổng cộng sáu lần, nhưng cuối cùng Tàu chiến Potemkin vẫn được chiếu toàn bộ.

Khi chính Eisenstein đến Paris vào năm 1930, Painlevé đã nhờ cha mình giúp đỡ các quan chức. Paul Painlevé đã ra lệnh cho người đứng đầu cảnh sát Pháp không làm phiền nhà làm phim. Trong chuyến thăm, Painlevé đã dẫn Eisenstein đi tham quan Paris: đến quảng trường Palais Royal, đến một quán cà phê nơi nhà thơ Alfred de Musset nổi tiếng từng uống absinthe, đến Comédie – Française để chiêm ngưỡng đám đông ăn mặc lộng lẫy. Ông rất thích cảnh tượng tư sản cổ điển này, Painlevé sẽ nhớ lại sau này. Tôi cũng đã đưa ông ấy đến rạp Cigale để xem một bộ phim Mỹ đặc sắc ‘Giáng sinh Đỏ.’ Sau đó, chúng tôi lang thang quanh khu hội chợ Clichy … và chụp ảnh trong một chiếc máy bay giả. Painlevé cũng sắp xếp cho Eisenstein đi du lịch bí mật đến Thụy Sĩ: Tôi đã giấu ông ấy trong một chiếc xe tải chở đồ giặt bẩn. Ông muốn gặp Valeska Gert, một nữ diễn viên Thụy Sĩ mà ông rất yêu thích. Khi Eisenstein rời châu Âu để đến Hoa Kỳ và Mexico, ông đã viết một loạt bưu thiếp gửi cho Painlevé trong đó ghi lại hành trình của mình.

Cá ngựa

Vào đầu những năm 1930, khi Painlevé bắt đầu thực hiện một trong những bộ phim đầu tiên sử dụng cảnh quay dưới nước, ông đã chọn cá ngựa làm chủ đề – một loài có vai trò giới tính khác thường và, theo Painlevé, đáng khen ngợi: Trong khi cá ngựa cái sản xuất trứng, thì cá ngựa đực lại mang chúng. Cá ngựa, ông sẽ viết sau này, là một cách tuyệt vời để quảng bá lòng tốt và đức hạnh của người cha, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết của người mẹ. Nói cách khác, tôi muốn khôi phục lại sự cân bằng giữa nam và nữ.

Để quay phim dưới nước, Painlevé đã đặt một chiếc máy quay Sept – được Charles David, người đứng đầu sản xuất tại studio Pathé – Natan tặng – vào một chiếc hộp chống nước được thiết kế đặc biệt, có gắn một tấm kính cho ống kính máy quay nhìn qua. Việc quay phim, diễn ra tại Vịnh Arcachon, rất khó khăn. Chiếc máy quay chỉ có thể chứa vài giây phim, khiến Painlevé phải liên tục quay trở lại mặt nước để nạp lại. Hơn nữa, thiết bị lặn mà ông sử dụng rất thô sơ, vì vậy những cử động của ông bị hạn chế. Về cơ bản, ông bị buộc phải neo mình vào một chiếc thuyền, thiết bị thở của ông được kết nối bằng một ống dài 10 mét với một máy bơm khí hoạt động bằng tay ở trên mặt nước. Painlevé sẽ nhớ lại những khó khăn: Kính bơi ép vào mắt tôi, mà ở một độ sâu nhất định, gây ra sự gia tăng nhịp tim do phản xạ oculocardiac. Nhưng điều làm tôi khó chịu nhất là vào một thời điểm nào đó, tôi không còn nhận được không khí nữa. Tôi đã nhanh chóng nổi lên bề mặt chỉ để thấy hai thủy thủ đang cãi nhau về tốc độ mà bánh lái nên được xoay.

Việc quay phim tiếp tục ở Paris trong một studio tầng hầm được trang bị những bể cá khổng lồ chứa nước biển. Tại đó, Painlevé và André Raymond đã đặt một chiếc máy quay và kiên nhẫn chờ một trong những con cá ngựa sinh con. Ban đầu, Painlevé phụ trách máy quay, nhưng sau vài ngày không ngủ, ông đã nhờ Raymond thay thế trong vài giờ. Raymond đã ngủ gật. Vì vậy, Painlevé lại phải đảm nhận – nhưng không trước khi lắp đặt một thiết bị trên vành mũ của mình có thể phát ra một cú sốc điện nhỏ nếu, do mệt mỏi, đầu của ông gật xuống máy quay. Nhờ vậy, Painlevé đã có thể quay được cảnh sinh con.

Được tài trợ một phần bởi một khoản vay cá nhân từ Bernard Natan, người sau này phân phối bộ phim thông qua Pathé – Consortium, Cá ngựa đã thành công về mặt thương mại – là bộ phim đầu tiên và duy nhất của Painlevé hòa vốn. Thực tế, bộ phim được yêu thích đến mức Painlevé đã ra mắt một dòng trang sức cá ngựa: vòng tay mạ vàng, dây chuyền, ghim và bông tai được thiết kế bởi Geneviève Hamon, bán dưới nhãn hiệu JHP (viết tắt của Jean Hippocampe Painlevé) và được trưng bày trong các cửa hàng thời trang bên cạnh những bể cá chứa cá ngựa sống. Những bức ảnh quảng cáo được chụp bởi Philippe Halsman, nhiếp ảnh gia người Lithuania mà tác phẩm của ông hiện được thu thập trong các cuốn sách như Dali’s MoustacheThe Jump Book.

Dự án trang sức này đã chứng tỏ rất có lãi – nhưng Painlevé không bao giờ thấy được số tiền nào. Không quan tâm đến việc điều hành doanh nghiệp, ông đã nhận một đối tác, Clément Nauny, để quản lý phần sản xuất của hoạt động này. Vào cuối cuộc chiến, Nauny đã chiếm đoạt lợi nhuận và biến mất đến Monaco, nơi ông không bao giờ được nghe thấy nữa.

Về tác giả Brigitte Berg

Brigitte Berg là giám đốc của Les Documents Cinématographiques ở Paris, một lưu trữ độc lập được Jean Painlevé thành lập vào năm 1930. Bài viết này được trích từ bài tiểu luận của bà trong cuốn sách Khoa học là Hư cấu: Những bộ phim của Jean Painlevé.

_nhavantuonglai_

Share:
Quay lại.

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »
6 đặc điểm tạo nên nhà văn giỏi

6 đặc điểm tạo nên nhà văn giỏi

Kết quả của một nhà văn giỏi là những tác phẩm có sức ảnh hưởng thuyết phục và giá trị lâu dài với người đọc. Tuy nhiên chỉ bấy nhiêu…

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.