Tại sao chúng ta coi trọng mạng sống con người?
Tại sao chúng ta không thể tập trung trong những sân vận động đông đúc để xem con người đấu đá và giết nhau như những trận đấu võ sĩ giác đấu?
· 9 phút đọc.
Có gì sai khi giết người? Khi bạn ngồi ở một nhà hàng nào đó, sẵn sàng thưởng thức bữa ăn của mình, tại sao bạn không thể đâm đầu bếp chỉ vì anh ta nấu quá chín miếng bít tết? Tại sao chúng ta không thể tập trung trong những sân vận động đông đúc để xem con người đấu đá và giết nhau như những trận đấu võ sĩ giác đấu ngày xưa?
Hầu hết chúng ta dường như có một giả định không cần phải bàn cãi rằng mọi người đều nên tiếp tục sống; rằng việc giết một con người là sai trái hơn tất cả mọi điều sai khác. Chúng ta chấp nhận không do dự rằng có điều gì đó về con người mà chúng ta nên bảo vệ và nếu có thể thì nên tránh gây tổn hại. Chúng ta coi trọng mạng sống con người theo một cách mà dường như có một điều gì đó thiêng liêng và huyền bí mà cừu non, gà tây, hay muỗi không sở hữu.
Tại sao tất cả chúng ta đều đồng ý với ý tưởng về tính thiêng liêng của mạng sống con người?
Món quà từ Thượng Đế
Rất nhiều giá trị mà chúng ta gán cho mạng sống con người đến từ tôn giáo. Ngay cả khi bạn hoặc đất nước của bạn không công khai tôn giáo, các truyền thống, bộ luật và giá trị bạn có ít nhiều đều xuất phát, ít nhất là gián tiếp, từ tôn giáo.
Nếu chúng ta tin rằng con người có một linh hồn theo cách nào đó, hoặc rằng chúng ta là những đứa con được yêu thương và quý trọng của một đấng tối cao toàn năng, thì rất dễ hiểu tại sao bạn không nên giết người. Nếu bạn giết ai đó, bạn đang xúc phạm và làm Thượng Đế buồn lòng, và có nguy cơ bị đày đọa vĩnh viễn. Bạn đang xúc phạm đến Đấng Sáng Tạo khi giết hại. Đó là lý do tại sao tất cả các tôn giáo lớn nhất hiện nay đều có các điều răn hoặc quy định yêu cầu tín đồ không được giết người. (Mặc dù, như bất kỳ ai có kiến thức cơ bản về lịch sử đều biết, hiếm khi các quy định này được tuân thủ triệt để.)
Khi chúng ta nhìn xa hơn các tôn giáo thuyết thần giáo, đến các tôn giáo dựa trên luật nhân quả, chúng ta thấy rằng mạng sống con người có ý nghĩa vì một lý do khác. Ví dụ, khi bạn giết một sinh mạng (dù là con người hay đôi khi không phải con người), bạn có nguy cơ tích tụ nghiệp báo, gắn linh hồn của mình với Trái đất để đầu thai lần nữa. Trong Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ, dù cả mạng sống con người lẫn động vật đều quý giá, con người vẫn quý giá hơn. Điều này là vì chỉ con người mới có thể đạt được niết bàn hoặc sự giác ngộ.
Sự quý giá của lý trí
Tính thiêng liêng của mạng sống con người có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong hầu hết các tôn giáo trên thế giới. Tuy nhiên, khi loại bỏ yếu tố tôn giáo, còn lại những lý lẽ triết học nào? Trong hàng thiên niên kỷ, câu trả lời này chịu ảnh hưởng lớn từ Aristotle.
Theo Aristotle, chỉ có một điều tốt thực sự trong vũ trụ: Một thực thể hoàn thành mục đích của mình (gọi là telos). Ông tin rằng mọi thứ nên sống đúng với mục đích mà nó được định sẵn. Đối với con người, điều này có nghĩa là sống lý trí và phát triển trong sự lý trí đó. Aristotle cho rằng tất cả các sinh vật sống đều có thể được phân loại dựa trên loại linh hồn mà chúng có. Ở bậc thấp nhất, là linh hồn sinh sản hoặc nuôi dưỡng, chẳng hạn như thực vật và cây cối.
Tiếp theo là linh hồn nhạy cảm về cảm giác và chuyển động – thuộc về thế giới động vật. Ở đỉnh của hệ thống phân cấp là trí tuệ, hoặc linh hồn lý trí, chỉ có ở con người. Ba loại linh hồn này lồng ghép với nhau, theo nghĩa rằng linh hồn cao hơn cũng chứa các yếu tố của linh hồn thấp hơn; động vật cũng sinh sản, và con người cũng có cảm giác. Từ tất cả điều này, Aristotle kết luận rằng chúng ta nên coi trọng mạng sống con người, vì khả năng lý trí vốn có của chúng ta.
Thánh Thomas Aquinas, nhà triết học Kitô giáo theo trường phái Aristotelean, đã phát triển những niềm tin này thành một hệ thống gọi là luật tự nhiên – trong đó, những hành động vô đạo đức là những hành động đi ngược lại với mục đích Thượng Đế đã ban cho chúng ta nhưng lại được lý trí nhận biết. Hai trong số những nguyên tắc cơ bản của Aquinas (luật tự nhiên) là tự bảo tồn và duy trì loài người, cả hai đều đòi hỏi rằng chúng ta không được giết người. Đối với Aquinas, lý trí cho phép chúng ta nhận biết sự thật của thế giới, và chúng ta nên bảo vệ điều đó: công cụ vĩ đại nhất của chúng ta. Trong triết học Hồi giáo, có một khái niệm tương tự gọi là uṣūl al-fiqh. Khái niệm này thường được dịch là pháp lý học, nhưng nó thực sự có nghĩa là sử dụng lý trí để khám phá các mệnh lệnh đạo đức. Lý trí là chân lý, và chân lý là điều quan trọng nhất. Chúng ta nên coi trọng nhân loại vì chúng ta tìm cách bảo vệ chân lý.
Đã đến lúc thiếu lý trí
Ngày nay, rất ít nhà tư tưởng thế tục coi trọng luật tự nhiên. Rất dễ thấy tại sao. Mặc dù Aquinas và các học giả Hồi giáo đã nâng cao lý trí, ý tưởng về những chân lý và tuyệt đối đạo đức được viết ra trong cấu trúc của vũ trụ vẫn phụ thuộc vào những cam kết siêu hình nhất định, tức là một vị thần hoặc linh hồn nào đó đã tạo ra chúng.
Chúng ta cũng sống trong một thời đại mà lý trí hay trí tuệ không được tôn vinh như trước đây. Những nhà tư tưởng như Søren Kierkegaard và Friedrich Nietzsche đã mở đầu cho một triết lý tập trung vào những khía cạnh khác của cuộc sống con người. Họ coi những điều như đam mê, tính cách, và tự do là những phần quan trọng hơn trong bản chất con người. Thực tế, chương mở đầu của tác phẩm Vượt ra khỏi điều thiện và điều ác của Nietzsche là một sự phê phán châm biếm về sự ám ảnh của các nhà triết học trước đây đối với lý trí và chân lý.
Các triết gia của Trường phái Frankfurt như Max Horkheimer và Theodor W. Adorno đã đưa điều này đi xa hơn. Đối với họ, lý trí không có nghĩa là một tiến bộ liên tục và kiên định. Lý trí không phải là thứ mà chúng ta nên tự hào. Họ lập luận rằng lý trí lạnh lùng đã dẫn đến sự thoái hóa kinh hoàng trong Đảng Quốc Xã và thảm họa Holocaust. Tôn thờ lý trí như một món quà thiêng liêng chẳng qua là một thần thoại, và là một thần thoại nguy hiểm.
Giá trị của mạng sống con người
Vậy tại sao chúng ta tiếp tục coi trọng mạng sống con người, đặc biệt là trên cả động vật? Nếu bạn coi trọng lý trí, tại sao lại như vậy? Và liệu chỉ riêng lý trí có thể mang lại giá trị cho một mạng sống con người?
Nói rộng ra, có hai loại giá trị. Một là giá trị công cụ, tức là giá trị vì những gì nó mang lại. Còn lại là giá trị nội tại, tức là thứ giá trị vì nó đơn giản tồn tại. Hãy thử xem xét điều đầu tiên: rằng chúng ta coi trọng con người vì giá trị công cụ của họ. Chúng ta có thể cho rằng mạng sống con người có thể được đo lường bằng những điều tốt đẹp mà nó mang lại cho thế giới.
Nếu vậy, chẳng phải việc lấy nội tạng từ một kẻ vô gia cư và xấu xa để cứu sống hàng chục người là hoàn toàn hợp lý? Liệu chúng ta có sẵn sàng chấp nhận rằng một số con người có giá trị hơn hoặc ít giá trị hơn, tùy thuộc vào năng suất hoặc đầu ra thiện lành hàng ngày của họ không? Một số người có thể chấp nhận điều này, nhưng tôi nghi ngờ rằng đa số thì không.
Lựa chọn còn lại là chúng ta coi trọng mạng sống vì chúng ta luôn coi trọng mạng sống. Có một loại tâm thức tập thể vô thức (vay mượn cách diễn đạt của Carl Jung) đồng tình và củng cố tính thiêng liêng của mạng sống. Qua những câu chuyện chúng ta kể, sự nuôi dạy tốt và giáo dục đạo đức, chúng
ta dạy cho mỗi thế hệ rằng mạng sống con người là vô giá trị hơn tất cả. Chúng ta thiết lập nó như một thần thoại thiêng liêng của thời đại chúng ta – một thần thoại mà chúng ta cần liên tục duy trì nếu chúng ta muốn nó được bảo vệ.
Nhưng công việc của triết gia không phải là chấp nhận những di sản giả định từ tiền nhân. Nó là để đặt câu hỏi ở những nơi mà câu hỏi chưa được đặt – để nhìn đằng sau tấm màn và nâng lên những viên đá. Với tư cách là những nhà triết học, chúng ta có thể đưa ra những lý do gì để gọi mạng sống con người là có giá trị?