Nhận thức của chúng ta về thực tại là một trải nghiệm chủ quan, một cấu trúc ảo được hình thành bởi giác quan, sinh học và lịch sử cá nhân của chúng ta.

Thực tại nằm trong mắt người nhìn

Nhận thức của chúng ta về thực tại là một trải nghiệm chủ quan, một cấu trúc ảo được hình thành bởi giác quan, sinh học và lịch sử cá nhân của chúng ta.

10 phút đọc  · lượt xem.

Nhận thức của chúng ta về thực tại là một trải nghiệm chủ quan, một cấu trúc ảo được hình thành bởi giác quan, sinh học và lịch sử cá nhân của chúng ta.

Mọi thứ không phải như những gì ta thấy, nhưng cũng không phải là thứ khác.

(Kinh Laṅkāvatāra).

Luôn luôn là bóng tối bên trong hộp sọ của tôi, của bạn cũng vậy, trừ khi có những lỗ hổng thực sự trên đó.

Đây là một điều hiển nhiên, nếu như trải nghiệm thị giác của tôi không khiến tôi nghĩ khác đi. Những gì nó gợi ý ngay lúc này, khi tôi tỉnh táo, có ý thức và mở mắt, là nơi mà tôi nhìn ra thế giới nằm ngay phía sau sống mũi của tôi. Đặc biệt hơn, tôi nhìn thấy mọi thứ dường như thông qua một cái lỗ hình bầu dục lớn ở phía trước đầu mình. Nhưng khi tôi dùng đầu ngón tay sờ thử, tôi nhận thấy khuôn mặt mình vẫn nguyên vẹn. Điều này chỉ có thể có một ý nghĩa: thực tại trong mắt mà tôi cảm giác đang sống là ảo. Nói một cách thẳng thắn hơn, tôi đang sống trong một lời dối trá.

Nội dung được trích từ cuốn Life, death, and other inconvenient truths, (Sự sống, cái chết, và những sự thật phiền toái khác) của Shimon Edelman.

Việc chính tôi là người tự lừa dối bản thân cũng mang lại một chút an ủi, giống như nhận thức rằng điều đó hoàn toàn phù hợp với bức tranh tổng thể về ý thức là gì. Và tôi biết rằng mình có thể – nhờ vào quá trình tiến hóa – tin tưởng phần lớn vào nhận thức của mình để không rơi vào những sai lầm nghiêm trọng, như bước khỏi một vách đá, bỏ qua một đôi mắt đang rình rập trong đám cỏ cao, hoặc gây nguy hiểm cho cơ hội sống và sinh sản của mình. Thế giới mà ta nhận thức là một ảo giác, nhưng đó là một ảo giác hữu ích.

Tình trạng của bộ não, bị giam cầm trong bóng tối vĩnh cửu bên trong hộp sọ, thực ra không nghiêm trọng như ta tưởng. Giác quan thu thập và sử dụng hiệu quả đủ thông tin về thế giới bên ngoài để duy trì hoạt động của bộ máy thực tế ảo. Nếu vẫn còn cảm giác bất an nào đó, thì nó đến từ việc suy nghĩ quá nhiều và lo lắng quá mức về những điều xa vời, như sự thật tối hậu. Một trong những nỗi lo như vậy là: Nếu mọi thứ chúng ta nhận thức chỉ là một cấu trúc ảo, làm sao chúng ta có thể tiếp tục tin rằng giác quan đang tiết lộ cho ta thế giới như nó thực sự tồn tại?

Umwelt

Nhận thức rằng thế giới mà ta thấy là ảo dẫn ngay đến một nhận thức khác: những gì ta nhìn thấy phụ thuộc vào loại bộ máy thực tế ảo mà ta sử dụng. Mọi thứ có thể trông rất khác đối với những loài có bộ não, cơ thể và môi trường sinh thái khác với tiêu chuẩn của con người. Ngay cả giữa con người với nhau, những người có khả năng đặc biệt cũng có thể nhìn thế giới theo cách khác.

Một ví dụ thú vị (dù hư cấu) giúp ta suy nghĩ về vấn đề này là Zatōichi, nhân vật chính của một loạt phim hành động nổi tiếng ở Nhật Bản, người dù bị mù nhưng vẫn là một kiếm sĩ vô song. Khán giả yêu thích hình tượng này, bởi vì Kiếm sĩ mù có thể đối đầu công bằng với đối thủ nhờ vào việc tận dụng tốt hơn các giác quan còn lại và kỹ năng của mình. (Tất nhiên, đôi khi anh ta không chơi công bằng: có những cảnh chiến đấu mà anh ta chém đứt tim đèn cầy, khiến mọi thứ chìm trong bóng tối.)

Khi một con người và một con chó cùng đi dạo, mỗi đầu sợi dây xích lại kết nối hai thế giới ảo khác nhau.

Một nhận thức quan trọng về tình huống của Zatōichi là ánh sáng không có ý nghĩa gì đối với anh ta, và thậm chí không tồn tại trong thế giới tri giác của anh. Tuy nhiên, anh vẫn hành động như thể mọi thứ được chiếu sáng rực rỡ. Hãy tưởng tượng: Zatōichi và một người sáng mắt bước vào một chuồng gia súc tối om. Bên trong đó, họ gặp một con dơi và một con cú. Lúc này, có bốn loại thế giới tri giác hoàn toàn khác nhau đang cùng tồn tại; năm, nếu tính cả những con chuột đang chạy trên sàn; sáu, nếu có một con mèo bước vào.

Nhà sinh thái học Jakob von Uexküll, một trong những người đầu tiên nhận ra tính đặc thù của mỗi thế giới sống (Umwelt), từng nói rằng con chó sống trong thế giới của chó, còn con chuồn chuồn sống trong thế giới của chuồn chuồn. Khi một con người và một con chó cùng đi dạo, mỗi đầu sợi dây xích lại kết nối hai thế giới ảo khác nhau.

Thực tại thật sự là gì?

Nếu các loài khác nhau, hay thậm chí các cá thể khác nhau trong cùng một loài, sống trong những thế giới tri giác khác nhau, thì chúng ta có thể biết được điều gì về thế giới thực? Rõ ràng, ta biết đủ để có thể hành động; ngoài điều đó ra, không nhiều lắm.

Đáng kinh ngạc thay, càng là những câu hỏi cơ bản về thế giới thực, thì càng khó có câu trả lời dứt khoát. Ban đêm có thực sự tối không? Cách mà chúng ta cảm nhận bóng tối chẳng liên quan gì đến một con dơi, và hoàn toàn vô nghĩa đối với một con chuột chũi. Không khí có đặc hay không? Đối với chúng ta thì không, nhưng đối với một con én, nó đủ đặc để chống lại khi nó bay lượn trên trời. Nước có ướt không? Không đối với một con vịt hay một con bọ nước.

Sự khác biệt này khiến ta phải thừa nhận rằng thế giới tri giác của chúng ta không có gì đặc biệt, và những gì ta thấy không phải là bản chất thực sự của mọi thứ.

Cách mà ta nhìn và cảm nhận sự vật không chỉ phụ thuộc vào bản thân người quan sát mà còn vào mục đích của hành động đó, cũng như lịch sử trải nghiệm (và do đó là trí nhớ), trạng thái cơ thể và cảm xúc của người quan sát. Khi tôi đói, con đường núi phía trước trông có vẻ dốc hơn so với sau bữa ăn.

Khoa học có thể giúp ta chăng?

Khi ta buộc phải nghi ngờ chính khái niệm về sự thật khách quan, liệu khoa học có thể giúp ta không? Câu trả lời là có, miễn là ta không mong đợi điều bất khả thi.

Tiến hóa đã thành công trong việc tạo ra vô số phương thức để sinh vật có thể tương tác hiệu quả với thế giới. Khoa học, với nguyên lý vận hành dựa trên sự biến đổi và chọn lọc, cũng có thể đạt được thành công tương tự. Nhưng tiến hóa không quan tâm đến câu hỏi về chân lý tối hậu, và các nhà khoa học cũng không nên theo đuổi điều đó.

Ví dụ, trong cơ học lượng tử, người ta không đặt câu hỏi liệu electron thực sự là sóng hay hạt.

Màu sắc của một quả chuối là gì? Màu tím (đó là loại chuối yêu thích của tôi từ Costa Rica), nhưng câu trả lời này không mang tính khách quan, vì màu sắc không có định nghĩa vật lý – nó hoàn toàn là sản phẩm của hệ thống thị giác trong sự tương tác với môi trường.

Mọi thứ không phải như chúng ta thấy, nhưng cũng không phải là thứ khác. Có một truyền thống triết học cho rằng điều này – bản chất trống rỗng của vạn vật – chính là một chân lý tối hậu; thực tế, đó là chân lý tối hậu duy nhất.

Một số người cảm thấy quan niệm này mang lại sự giải thoát – truyền thống tôn giáo được xây dựng dựa trên triết lý đó xem đây là ý niệm giải thoát duy nhất. Những người khác, như nhân vật anh hùng bất đắc dĩ trong cuốn The Lathe of Heaven (Bánh xe trời) của Ursula Le Guin, lại thấy điều đó thật khó chấp nhận:

Có một con chim trong bài thơ của T. S. Eliot nói rằng loài người không thể chịu đựng quá nhiều thực tại; nhưng con chim đó đã nhầm. Một con người có thể gánh cả sức nặng của vũ trụ trong suốt tám mươi năm. Điều mà anh ta không thể chịu đựng chính là sự hư ảo.

Nhưng giờ đây, khi chúng ta đã nhìn thấy nó, chúng ta buộc phải chấp nhận nó.

Về tác giả Shimon Edelman

Shimon Edelman là Giáo sư Tâm lý học tại Đại học Cornell. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách, bao gồm Những Cuộc Cách Mạng về Ý Thức: Từ Nhận Thức của Đơn Bào đến Sự Giải Phóng của Con Người (Springer) và Sự Sống, Cái Chết, và Những Sự Thật Phiền Toái Khác: Cái Nhìn Hiện Thực về Thân Phận Con Người,_ từ đó bài viết này được trích dẫn.

Tài liệu tham khảo

  1. Bài tập thị giác lỗ hổng trên mặt được nhắc đến trong một bài báo năm 2013 của nhà thần kinh học Bjorn Merker, trong bối cảnh lý thuyết của ông về cơ sở thần kinh của ý thức. Nếu bạn thử làm nó tại nhà, hãy cẩn thận để bảo vệ giác mạc của mình.

  2. Sự không thể tách rời giữa nhận thức và hành động theo từng loài (hoặc theo từng Umwelt) đã được nhấn mạnh bởi các nhà tâm lý học sinh thái như William Warren.

  3. Khái niệm nhìn như (seeing as), ban đầu do Ludwig Wittgenstein đề xuất trong Philosophical investigations (Điều tra triết học, 1958), cũng đã được Douglas Hofstadter thảo luận trong On seeing A’s and seeing as (Về việc nhìn A và nhìn như, 1995). Đây là một thành phần quan trọng trong các lý thuyết về nhận thức thị giác và ý thức.

  4. Quan điểm rằng nhận thức không thể khách quan là trọng tâm của Lý thuyết giao diện (Interface theory). Tôi đã thảo luận một số khía cạnh tiến hóa liên quan đến lý thuyết này ở nơi khác. Lý thuyết này và những tranh luận xung quanh nó có liên quan mật thiết đến cách chúng ta suy nghĩ.

nhavantuonglai

Share:

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »
Tư duy phản thực tế là gì?

Tư duy phản thực tế là gì?

Có hai loại tư duy phản thực tế là lên và xuống. Cả suy nghĩ phản thực tế lên và xuống đều có thể là tác động tích cực đến…

Hồi giáo, khoa học và sự kinh sợ

Hồi giáo khoa học và sự kinh sợ

Thông qua việc theo đuổi khám phá và tri thức khoa học có thể giúp chúng ta kết hợp giữa tinh thần và lý trí giữa sự suy ngẫm bên…

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.