5 câu trích dẫn triết học bị hiểu lầm nhiều nhất
Điều tuyệt vời về triết học là chúng ta đều có thể thực hành nó. Ai cũng có thể đặt ra những câu hỏi triết học về thực tại.
· 12 phút đọc.
Điều tuyệt vời về triết học là chúng ta đều có thể thực hành nó. Ai cũng có thể đặt ra những câu hỏi triết học về thực tại, sự thật, đúng và sai, và ý nghĩa của tất cả.
Thậm chí, chúng ta thường đặt ra những câu hỏi đó trong những khoảnh khắc ngắn ngủi suốt cả ngày. Những cuốn sách hay, chương trình truyền hình hay phim ảnh xuất sắc đều nhuộm đẫm triết học và gieo rắc những ý tưởng kéo dài mãi sau khi bạn đã gấp sách hoặc màn hình mờ dần.
Nhưng dù ai cũng có thể thực hành triết học (triết học viết thường), cũng đúng rằng không phải ai cũng giỏi về Triết học (Triết học viết hoa, như một môn khoa học). Khi bạn học Triết học, chỉ một phần nhỏ – thường được dành cho những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm trong các khoa triết học tại các trường đại học – liên quan đến việc thực hành triết học. Phần còn lại là học về những gì các triết gia khác đã nói và lý do họ nói như vậy. Điều này hoàn toàn hợp lý. Khi bạn học vẽ hay viết, bạn cũng phải học các kỹ thuật cơ bản trước. Bạn cần phải học cách đi trước khi có thể chạy.
Vấn đề là internet tràn ngập những triết lý nửa vời và phần lớn là bị hiểu sai. Nó thường bao gồm một loạt các câu trích dẫn – thường từ Nietzsche, Rumi, hoặc Camus – được tách ra từ một dòng duy nhất của một cuốn sách rất phức tạp. Đó là sự khôn ngoan, nhưng đã bị tách ra khỏi ngữ cảnh và bị làm mất đi sự tinh tế. Các tài khoản hàng triệu người theo dõi trên mạng xã hội xé nhỏ các câu châm ngôn sắc sảo từ những cuốn sách lớn và biến nó thành phiên bản triết học tương đương với sống, cười, yêu.
Nietzsche: Chúa đã chết
Câu trích dẫn này trở nên mạnh mẽ hơn nhiều (và có ý nghĩa hơn) khi bạn nhìn vào những phần tiếp theo sau nó: Chúa vẫn chết! Và chúng ta đã giết Người!
Rốt cuộc, câu trích dẫn này thực ra không liên quan nhiều đến Chúa – nó nói về nhân loại, những gì chúng ta đã làm, và những hành động đó có ý nghĩa gì.
Khi Nietzsche nói, Chúa đã chết!, đó không phải là tiếng reo hò chiến thắng của một anh hùng đã giết rồng, hay một kẻ vô thần tự mãn đứng sau nhà thờ. Đó giống như những lời thì thầm lo âu trong một buổi lễ tang. Chúa, trong trường hợp này, là tâm điểm mà quanh đó chúng ta đã sống, chứ không phải là một nhân vật có râu, nhân từ trong thần thoại.
Trước khi thời kỳ Khai sáng bắt đầu giới thiệu khoa học và lý trí cho quần chúng, Chúa có nghĩa là sự chắc chắn, sự thật, an ninh và mục đích. Ngài là khởi đầu và kết thúc; câu trả lời cho mọi câu hỏi trong cuộc sống. Ngài là bậc phụ huynh vĩ đại giúp thế giới trở nên có ý nghĩa. Không có Chúa, Nietzsche tiếp tục nói, chúng ta như đang rơi tự do, không có cảm giác về phương hướng lên hay xuống. Chúng ta không có gì để bám víu, không có gì để giữ chúng ta ổn định.
_Câu Chúa đã chết nói về việc chúng ta định hình lại bản thân trong một thế giới không còn xoay quanh Chúa nữa. Làm thế nào chúng ta có thể hiểu mọi thứ khi tất cả những lời giải thích của chúng ta đột nhiên biến mất?
Ockham: Các thực thể không nên được nhân lên một cách không cần thiết
Nếu tôi yêu cầu bạn liệt kê ba nguyên tắc triết học hàng đầu của bạn, tôi cá rằng dao cạo của Ockham sẽ đứng ở vị trí cao trong danh sách. Nhiều người thường cho rằng nguyên tắc của Ockham là nếu điều gì đó đơn giản hơn, thì có nhiều khả năng nó đúng hơn – như thể sự đơn giản tỉ lệ thuận với sự thật. Nhưng đó không phải là ý mà nguyên tắc này muốn diễn đạt. Dao cạo của Ockham không phải là một quy tắc, mà là một nguyên tắc chỉ dẫn khi lựa chọn giữa các tùy chọn. Về cơ bản, nó nói rằng nếu chúng ta có hai lý thuyết hấp dẫn ngang nhau, thì việc tin vào lý thuyết đơn giản hơn là hợp lý hơn.
Nhưng vấn đề lớn nhất trong cách hiểu dao cạo của Ockham là nó thực sự không nhằm vào các thực thể trong thế giới thực, như trong triết học khoa học. Khi Ockham viết, ông đang nhắm vào một số siêu hình học khá điên rồ. Đây là thời đại của các thiên thần và câu hỏi có bao nhiêu thiên thần có thể nhảy múa trên đầu một cây kim? Đó là những vấn đề quá chi tiết, rườm rà và rất kỳ lạ. Ví dụ, Dun Scotus tin rằng thế giới bên ngoài tinh thần được cấu thành từ 10 bản chất siêu hình riêng biệt, và 10 chỉ là một con số khiêm tốn vào thời đó.
Ockham đang cố gắng khiến mọi người bình tĩnh lại một chút – để ngừng việc tạo ra hàng triệu thực thể siêu hình khi chỉ cần một hoặc vài thực thể là đủ.
Marx: Chủ nghĩa tư bản hoàn toàn xấu
Đây là một ý tưởng hơn là một câu trích dẫn cụ thể. Đối với nhiều người không quen thuộc với Marx, hoặc những người chỉ đọc qua các tác phẩm của ông, Marx hiện lên như một kẻ đốt phá ngân hàng, xây dựng rào chắn chống lại chủ nghĩa tư bản. Không nghi ngờ gì rằng Marx không mong muốn chủ nghĩa tư bản, nhưng điều đó không có nghĩa là ông không thấy được mặt tốt của nó. Thực tế, ông thậm chí còn công nhận đó là một phần quan trọng và thiết yếu trong tiến trình lịch sử.
Phần mở đầu của bản Tuyên ngôn Cộng sản là một sự thừa nhận dài, dù miễn cưỡng, về những thành công của chủ nghĩa tư bản. Marx chỉ ra sự phát triển của công nghiệp, thương mại và mạng lưới liên lạc; sự cung cấp giáo dục; và sự cai trị của luật pháp. Chủ nghĩa tư bản là thứ đã kết nối các dân tộc chiến tranh và tranh cãi thành một chính phủ, một bộ luật, một lợi ích quốc gia chung. Nó buộc những dân tộc bài ngoại, tách biệt với một sự thù ghét cố hữu đối với người nước ngoài, phải đầu hàng. Nhưng điều quan trọng nhất mà chủ nghĩa tư bản đã làm là hành động như một loại phá hủy sáng tạo.
Chủ nghĩa tư bản hàng hóa hóa mọi thứ đến mức tất cả những gì là vững chắc tan biến vào không khí, tất cả những gì là thiêng liêng bị làm cho ô uế. Nó xé toang các vị thần và những điều thiêng liêng của quá khứ và thay thế chúng bằng lợi nhuận và công nghiệp. Chính sự phá hủy các biểu tượng này sẽ là tấm bảng trắng cho phép tái cấu trúc bình đẳng xã hội. Hơn nữa, sự tôn thờ lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản là điều tạo ra sự dư thừa và năng suất cần thiết cho việc phân phối tài nguyên theo cách cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản không xuất hiện đột ngột mà phát triển từ chủ nghĩa tư bản giai đoạn cuối.
Dĩ nhiên, đối với Marx, chủ nghĩa tư bản là sự bóc lột trần trụi, vô liêm sỉ, trực tiếp và tàn bạo đối với nhân loại. Nó đầy rẫy những vấn đề và có xu hướng làm nổi bật những mặt xấu nhất của con người. Nhưng đó cũng là một cái ác cần thiết trên con đường dẫn đến một kỷ nguyên tốt đẹp hơn.
Rousseau: Người man rợ cao quý
Đây là một sự gian lận nho nhỏ, vì thay vì bị hiểu lầm thì có lẽ tốt hơn là nói rằng ý tưởng này bị gán nhầm. Ý tưởng người man rợ cao quý của Rousseau là trước khi chúng ta bắt đầu sống trong các thành phố và tự gọi mình là văn minh, con người là một loài tự nhiên có đức tính tốt. Chúng ta tử tế, hòa đồng và hạnh phúc. Người ta cho rằng Rousseau đã sử dụng cụm từ này để chỉ cách mà xã hội hiện đại làm suy đồi con người hơn là nâng cao phẩm chất của họ. Văn minh thực ra làm con người trở nên suy đồi hơn là văn minh.
Không chỉ ý tưởng về người man rợ so với văn minh là một quan niệm lạc hậu, phân biệt chủng tộc và thuộc địa, mà vấn đề lớn là Rousseau chưa bao giờ nói điều đó. Ông có lẽ cũng không tin vào điều đó. Rousse
au lập luận rằng chúng ta không thể gọi những người trước khi có xã hội là tốt hay xấu, có đức tính hay tàn ác, vì những ý tưởng này tiến hóa cùng với nền văn minh. Khái niệm của chúng ta về đúng sai được hình thành hoặc do xã hội mà chúng ta thuộc về trao cho. Việc đề cập đến người man rợ cao quý sẽ đồng nghĩa với việc áp đặt các giá trị của chúng ta lên một dân tộc chưa có giá trị. Trước nền văn minh, con người không phải đạo đức hay vô đạo đức. Họ chỉ là tự nhiên.
Descartes: Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại
Tôi thừa nhận, điều này có phần hẹp hòi. Trước hết, Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại chắc chắn không có nghĩa là nếu bạn tin vào điều đó, bạn có thể làm được điều đó. Rene Descartes không phải là phiên bản của Dale Carnegie vào thế kỷ 17, viết sách tự giúp đỡ để nuôi dưỡng cơn nghiện robot của mình. Thay vào đó, đây là nỗ lực của ông để giải quyết sự hoài nghi cực đoan, đó là câu hỏi làm sao chúng ta có thể chắc chắn về bất cứ điều gì?
Điểm cơ bản là nếu tôi đang suy nghĩ ngay bây giờ – hoặc chính xác hơn là nếu tôi đang hoài nghi – thì cũng phải là tôi đang tồn tại. Một thứ không tồn tại không thể suy nghĩ.
Sự hiểu lầm xảy ra khi người ta cho rằng đây là một lập luận dưới dạng các tiền đề (Tôi tư duy) dẫn đến kết luận (Tôi tồn tại). Phải thừa nhận rằng từ vậy khiến bạn dễ bị nhầm lẫn. Thay vào đó, Cogito là một trực giác a priori – tức là nó đúng chỉ bằng việc suy ngẫm về nó. Nó giống như nói đây là một hình tam giác, vậy đó là một hình có ba cạnh. Nó không phải là một lập luận mà là một tuyên bố chứa đựng những sự thật nhất định bên trong.
Lý do điều này quan trọng, và không (chỉ) là một chi tiết nhỏ trong triết học, là trong Những suy tư của Descartes, ông khá rõ ràng rằng chúng ta không có căn cứ để nghĩ rằng lý trí của mình không mắc sai lầm. Khả năng của chúng ta để tìm ra sự thật trong các lập luận có thể chỉ là trò chơi của một con quỷ toàn năng nào đó.
Như Descartes viết, làm sao tôi biết rằng tôi không bị lừa dối mỗi khi tôi cộng hai và ba, hoặc đếm số cạnh của một hình vuông? Vì vậy, chúng ta không thể dựa vào logic của mình. Đây là lý do tại sao Cogito – nếu nó được coi là cách thoát khỏi sự hoài nghi của Descartes – không thể là một lập luận.
Hãy đào sâu hơn một chút
Như chúng ta đã thấy, hiếm khi (và rất khó có khả năng) toàn bộ kinh điển của những bộ óc vĩ đại nhất trong lịch sử có thể được tóm tắt, hay hiểu đầy đủ, trong một bài đăng Pinterest được trang trí đẹp đẽ. Hầu như luôn luôn là nếu bạn dành thời gian để tìm kiếm ngữ cảnh đầy đủ của một câu trích dẫn, bạn sẽ khám phá ra nhiều hơn thế. Ít nhất, bạn sẽ tìm thấy chi tiết và sắc thái, và nhiều lúc, bạn sẽ tìm thấy điều gì đó hoàn toàn khác so với ấn tượng ban đầu của mình.
Nhưng tất nhiên, đó không phải là điều mà nhiều người muốn làm. Những câu trích dẫn, đặc biệt là những câu phổ biến, hoạt động như một loại gương thần kỳ trong đó chúng ta thấy những gì chúng ta muốn thấy. Và thành thật mà nói, nếu nó khiến mọi người suy nghĩ và trò chuyện, điều đó cũng không gây hại gì.