3 quan điểm triết học kỳ lạ về âm nhạc
Âm nhạc là một trải nghiệm phổ quát của con người. Từ những bản nhạc bình thường trong thang máy đến những bản giao hưởng đầy cảm xúc, âm nhạc có mặt ở mọi nơi.
· 7 phút đọc.
Âm nhạc là một trải nghiệm phổ quát của con người. Từ những bản nhạc bình thường trong thang máy đến những bản giao hưởng đầy cảm xúc, âm nhạc có mặt ở mọi nơi. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi các triết gia cũng có điều để nói về âm nhạc – mặc dù một số ý tưởng của họ có phần kỳ lạ. Hãy cùng xem xét ba trong số những quan điểm đó.
Plato nghĩ rằng một số loại âm nhạc cần bị cấm
Plato là học trò của Socrates. Nhiều tư tưởng của ông đã trở thành nền tảng của triết học phương Tây, nhưng quan điểm của ông về âm nhạc lại đặc biệt kỳ lạ. Plato cho rằng âm nhạc có giá trị vì nó mô phỏng cảm xúc của chúng ta. Ông lập luận rằng âm nhạc có thể được sử dụng để cải thiện giáo dục và nâng cao đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, giống như một ông cụ khó tính, ông cũng đổ lỗi cho những thay đổi trong thị hiếu âm nhạc về việc từ chối quyền lực và sự hỗn loạn sau Chiến tranh Ba Tư.
Điều này có thể giải thích lý do tại sao trong tác phẩm Cộng hòa, Plato lập luận rằng âm nhạc cần được kiểm soát chặt chẽ bởi các nhà triết học cầm quyền. Ông kết luận rằng hầu hết các loại nhạc phải bị cấm. Nếu mọi việc theo ý của Plato, chúng ta chỉ còn lại hai thang âm Dorian và Phrygian, mà theo ông, là phù hợp cho các chiến binh và người đàn ông làm việc trong thời bình. Những thang âm khác, như Lydian, theo ông làm con người trở nên lười biếng. Để so sánh, điều này giống như đổ lỗi cho mọi vấn đề của xã hội lên các bài hát được viết ở giọng Mi trưởng. Dù sao, đó cũng là một lập luận mới lạ của Plato.
Schopenhauer cho rằng âm nhạc là hiện thực được hiện thân
Arthur Schopenhauer là một triết gia người Đức hoạt động vào thế kỷ 19. Ông nổi tiếng với quan điểm bi quan, việc đưa các ý tưởng Phật giáo và Ấn Độ giáo vào triết học Đức, và tình yêu của ông dành cho âm nhạc.
Để hiểu quan điểm của Schopenhauer về âm nhạc, bạn cần nắm được cách ông nhìn nhận thế giới. Ông viết rằng chỉ có một thứ duy nhất chúng ta có thể hiểu được bản chất của nó, đó là cơ thể của chính chúng ta. Cơ thể của chúng ta bị chi phối bởi Ý chí hay Ý chí sống, mà chúng ta cảm nhận được qua sự khao khát và mong muốn. Ông lập luận rằng điều này giúp chúng ta nhận ra rằng mọi thứ khác, ở cấp độ siêu hình, cũng là Ý chí. Thế giới mà chúng ta tương tác là sự biểu hiện của Ý chí này. Vì Ý chí không thể thỏa mãn, thế giới tràn ngập đau khổ. Chỉ khi chúng ta phủ nhận Ý chí, chúng ta mới tìm được sự bình yên. Một số điều, như nghệ thuật, giúp chúng ta có trải nghiệm tương tự.
Âm nhạc được Schopenhauer coi là hình thức nghệ thuật vĩ đại nhất. Ông cho rằng điều này là vì âm nhạc có thể thể hiện Ý chí thay vì chỉ một phần của nó. Điều này đặt âm nhạc ngang hàng với toàn bộ thế giới. Đó là lý do ông tin rằng, Âm nhạc có thể tồn tại ngay cả khi không có thế giới. Không phải vì âm nhạc có thể khiến chúng ta cảm nhận điều gì đó là điều quan trọng; thay vào đó, âm nhạc cho phép chúng ta trải nghiệm Ý chí mà không cần cảm nhận nó. Âm nhạc mang lại cho chúng ta những khoảnh khắc giải thoát khỏi khao khát và kết nối với sự thật cao hơn: Ý chí.
Mặt khác, Schopenhauer là một ông già cay nghiệt, người tin rằng thế giới chúng ta đang sống là tồi tệ và cuộc sống là đau khổ. Ông từng xô một phụ nữ xuống cầu thang chỉ vì cô ấy nói chuyện quá to gần cửa nhà ông, và sau này cảm thấy nhẹ nhõm khi cô ấy qua đời vì điều đó chấm dứt các khoản bồi thường mà ông phải gửi cho cô ấy. Âm nhạc là một trong số ít những thứ ông thực sự yêu thích.
Adorno tin rằng âm nhạc đại chúng dẫn đến chủ nghĩa phát xít
Theodor W. Adorno là một triết gia Marxist thuộc Trường phái Frankfurt. Ông rất quan tâm đến cách âm nhạc kết hợp với xã hội học và chính trị. Không giống như những người khác trong danh sách này, Adorno là một nhà soạn nhạc được đào tạo bài bản và hiểu biết sâu rộng về lý thuyết âm nhạc hiện đại. Tuy nhiên, điều đó không ngăn ông có một quan điểm rất độc đáo về âm nhạc đại chúng.
Adorno lập luận rằng, ở mức tốt nhất, âm nhạc có thể thể hiện những mâu thuẫn nội tại trong xã hội mà nó được tạo ra mà không cần phải là trọng tâm chính của nó. Ví dụ, ông ca ngợi nhà soạn nhạc Arnold Schoenberg và âm nhạc vô điệu của ông vì hệ thống của ông thoát khỏi những giới hạn hiện có, tuân theo một logic mới thay vì xu hướng, và đòi hỏi sự tập trung để thưởng thức. Mặt khác, âm nhạc đại chúng chỉ là một sản phẩm của nền công nghiệp văn hóa. Ông không thích âm nhạc đại chúng vì nó là một mặt hàng có giá trị nghệ thuật hạn chế và có khả năng dẫn dắt quần chúng đến sự đồng nhất và chủ nghĩa phát xít – điều này có nghĩa là mọi loại nhạc jazz đều tệ hại.
Adorno nổi tiếng với việc gán nhạc jazz vào khái niệm âm nhạc đại chúng của mình. Ông bác bỏ cả thể loại này lẫn những người bảo vệ nó. Ví dụ, ông lập luận rằng mặc dù jazz có vẻ giải phóng nhờ khuyến khích sự ngẫu hứng và nhịp điệu bất ngờ, nhưng nó vẫn thường dựa vào nhịp chung và nhịp bass mạnh. Nó dường như là một điều mới mẻ táo bạo, trong khi thực chất vẫn là thứ có thể được sản xuất hàng loạt và bán cho khách hàng. Ông cũng lập luận rằng các yếu tố đa sắc tộc trong nhạc jazz những năm 1930 đã được đưa vào chiến lược tiếp thị.
Quan điểm của Adorno đã bị chỉ trích là phân biệt chủng tộc, mang tính Eurocentric và thiếu hiểu biết. Nhà sử học Marxist và nhà phê bình âm nhạc Eric Hobsbawm gọi những tác phẩm của ông là những trang viết ngớ ngẩn nhất từng được viết về nhạc jazz. Học trò của ông, nghệ sĩ guitar jazz Volker Kriegel, cho biết Adorno không hề biết đến những nghệ sĩ như John Coltrane hay Charlie Parker trong khi ông tiếp tục chỉ trích thể loại này. Những người biện hộ cho Adorno cho rằng ông chỉ trích jazz như một mặt hàng trong bối cảnh nước Đức cuối những năm 1930. Khi đó, jazz mang những yếu tố mà sau này ông sẽ phê phán một cách rộng rãi hơn.
Dù sao đi nữa, ông vẫn tiếp tục ghét bỏ thể loại này trong các bài viết về văn hóa của mình cho đến khi qua đời vào năm 1969, lâu sau khi jazz đã tách khỏi âm nhạc đại chúng. Ông cũng có thời gian để ghét cả nhạc dân ca những năm 1960 và ban nhạc The Beatles.