10 bài học triết học từ Alan Watts
Ngay sau khi Alan Watts qua đời vào năm 1973, hai cô con gái lớn của ông, Joan và Anne, đã bắt đầu thu thập những hộp thư từ và thư tín của ông.
· 5 phút đọc · lượt xem.
Ngay sau khi Alan Watts qua đời vào năm 1973, hai cô con gái lớn của ông, Joan và Anne, đã bắt đầu thu thập những hộp thư từ và thư tín của ông.
Mở đầu
Ngay sau khi Alan Watts qua đời vào năm 1973, hai cô con gái lớn của ông, Joan và Anne, đã bắt đầu thu thập những hộp thư từ và thư tín của ông. Mặc dù phải mất hàng thập kỷ để xuất bản, nhưng cuốn The Collected Letters of Alan Watts (Những Lá Thư Được Thu Thập Của Alan Watts) đã bổ sung thêm một mảnh ghép nữa vào văn học phong phú về nhà triết học và diễn giả vĩ đại người Anh này. Sau khi gặp Joan tại một hội nghị và có được cuốn sách mới nhất này, tôi quyết định đã đến lúc lướt qua các tác phẩm khác trong bộ sưu tập của mình.
Thư mục của Watts rất phong phú, với nhiều tập sách được xuất bản sau khi ông qua đời cũng như khi ông còn sống, phần lớn dựa trên danh mục các bài nói chuyện phong phú của ông. Ông là một trong những người đầu tiên giải thích các văn bản Đông phương cho khán giả phương Tây, không chỉ bằng cách cung cấp các bản dịch đơn giản. Watts đã nắm bắt được bản chất của các thần thoại và câu chuyện kinh thánh, kể lại chúng bằng một ngôn ngữ mà khán giả say mê có thể dễ dàng hiểu được (và đôi khi không dễ; ông không chỉ là một người phổ biến hóa kiến thức).
Mặc dù sách của ông rất thú vị và sâu sắc, ông thực sự tỏa sáng trên sân khấu (thường kỳ diệu là sau khi thưởng thức một chai whisky). Từ khi tôi phát hiện ra công trình của ông cách đây một phần tư thế kỷ, tôi thường xuyên quay lại tìm ông mỗi khi cần chút thông thái, đặc biệt là những loại đến kèm theo một chút hài hước. Dưới đây là một vài điều mà tôi đã chọn lọc trong một buổi chiều gần đây khi hồi tưởng về con người và cuộc đời phi thường của ông.
10 bài học triết học từ Alan Watts
Mọi nỗ lực của chúng ta trong cuộc sống tâm linh đều được thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân.
(Behold the spirit).
Nếu chúng ta là công dân của thế giới này, và nếu không thể có sự thỏa mãn cuối cùng cho nỗi bất mãn của linh hồn, liệu tự nhiên khi sinh ra con người có phải đã phạm một sai lầm nghiêm trọng không?
(The Wisdom of Insecurity).
Sự phù du mà chúng ta tìm cách giải thoát chính là kẻ giải thoát.
(Nature, man and woman).
Tâm lý trị liệu và giải thoát hoàn tất trong khoảnh khắc khi sự xấu hổ và cảm giác tội lỗi sụp đổ, khi cơ thể không còn bị buộc phải tự vệ vì là một cơ thể, và khi cá nhân đã sẵn sàng thừa nhận hành vi vô thức của mình.
(Psychotherapy east & west).
Chúng ta không muốn chỉ sống sót, hoặc sống sót để rồi bị hành hạ mãi mãi trong địa ngục. Chúng ta muốn sống sót một cách thú vị, thậm chí thanh lịch.
(Beyond theology).
Thần tượng hóa kinh sách giống như ăn tiền giấy.
(The book: On the taboo against knowing who you are).
Cuộc sống của con người – và tất cả các cuộc sống – không hoạt động hài hòa khi chúng ta cố ép buộc nó trở nên khác với bản chất của nó, vì lý do rất đơn giản rằng điều này dựa trên giả định rằng tôi, người muốn kiểm soát mọi thứ, là một cái gì đó tách biệt với những gì tôi muốn kiểm soát.
(Cloud hidden, whereabouts unknown).
Thế giới của thần thoại là quá khứ, là ngày xửa ngày xưa, chỉ theo nghĩa tượng trưng – theo nghĩa rằng nó nằm sau chúng ta, không phải như thời gian đã qua ở phía sau, mà như bộ não không thể nhìn thấy nằm sau đôi mắt nhìn thấy, như ký ức nằm sau những gì nhớ nhưng không thể nhớ.
(Myth and ritual in christianity).
Giả thuyết rằng việc biết đòi hỏi phải có người biết dựa trên quy tắc ngôn ngữ chứ không phải quy tắc hiện sinh, như trở nên rõ ràng khi chúng ta cân nhắc rằng mưa không cần người làm mưa và mây không cần người làm mây.
(Tao: the watercourse way).
Rất thường xuyên tôi nghĩ rằng niềm tin và đức tin có thể đối lập nhau. Niềm tin xuất phát từ gốc Anglo-Saxon lief, có nghĩa là mong muốn. Niềm tin là hy vọng mãnh liệt rằng một số điều là đúng. Trong khi tôi cảm thấy rằng đức tin là một sự mở lòng, sẵn sàng chấp nhận sự thật, dù nó có thể là gì. Đó là sự cam kết bản thân với cuộc sống, với vũ trụ, với bản chất của chính mình như nó là, trong nhận thức rằng thực sự chúng ta không có lựa chọn nào khác._
(Zen and the beat way).