Chủ nghĩa khắc kỷ và Phật giáo có phải là những triết lý không lành mạnh?

Mọi người thường nói, Hãy buông bỏ hoặc _Đừng để mọi thứ trong lòng. Nhưng đâu là ranh giới của triết lý này?

 · 9 phút đọc.

Mọi người thường nói, Hãy buông bỏ hoặc _Đừng để mọi thứ trong lòng. Nhưng đâu là ranh giới của triết lý này?

Khi nào thì sự buông bỏ vượt qua ranh giới lành mạnh? Mọi người thường nói, Đừng để mọi thứ trong lòng; Chấp nhận mà không kiêu ngạo; Hãy buông bỏ. Nhưng ở một thời điểm nào đó, điều này trở nên quá mức. Nhưng là ở đâu? Làm thế nào chúng ta biết được?

(Jiri, Czechia).

Một câu hỏi tuyệt vời, Jiri, và cũng là điều tôi đã suy nghĩ gần đây. Nếu bạn dành thời gian quanh những người triết học, bạn sẽ thấy có rất nhiều người đang tìm hiểu về Chủ nghĩa Khắc kỷ hoặc đọc tài liệu về Phật giáo. Dĩ nhiên, theo nhiều cách, hai triết lý này khác nhau như bạn mong đợi từ hai triết lý sinh ra từ những nền văn hóa khác nhau, cách nhau hàng nghìn dặm. Nhưng cả hai đều có chung một ý tưởng: vấn đề của sự dính mắc.

Chủ nghĩa khắc kỷ (stoicism) là gì?

Chủ nghĩa khắc kỷ (stoicism) là một triết lý sống cổ đại có nguồn gốc từ Hy Lạp, nhấn mạnh tầm quan trọng của lý trí, tự chủ và việc chấp nhận những điều không thể thay đổi. Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng hạnh phúc không phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài mà đến từ việc kiểm soát cảm xúc và phản ứng của bản thân trước những thử thách. Họ coi trọng việc sống đạo đức, đồng thời chấp nhận rằng đau khổ và khó khăn là phần tự nhiên của cuộc sống. Chủ nghĩa khắc kỷ khuyến khích việc phát triển bản thân, tìm kiếm trí tuệ và sống theo các giá trị như công bằng, lòng dũng cảm và tự trọng.

Mở đầu

Trong Chủ nghĩa Khắc kỷ, Epictetus từng viết, Nếu bạn yêu thích một cái bình, hãy nói, Đây là một cái bình mà tôi thích, và sau đó, nếu nó bị vỡ, bạn sẽ không buồn. Nếu bạn hôn con cái hay vợ mình, hãy nói với bản thân rằng đó là một con người mà bạn đang hôn; và sau đó, nếu một trong số họ chết, bạn sẽ không buồn. Và đây cũng là một lời dạy nổi tiếng trong Phật giáo và là nền tảng của Tứ Diệu Đế rằng sự dính mắc là gốc rễ của khổ đau. Cả người Khắc kỷ và Phật tử đều chỉ ra rằng sự khao khát và bám víu vào những điều vô thường dẫn đến dukkha, sự đau khổ, hoặc sự bất mãn.

Nhưng Jiri nêu ra một câu hỏi thú vị. Khi nào thì loại buông bỏ này trở nên không lành mạnh? Sau cùng, hầu hết mọi người khi đọc điều này sẽ thấy kỳ lạ – hoặc thậm chí là bệnh lý – nếu bạn thấy một phụ huynh thờ ơ trước cái chết của con họ. Điều này gợi ý rằng có một ranh giới nào đó cần được vạch ra. Đôi khi, sự buông bỏ có thể là một điều không lành mạnh.

Tôn giáo không phải là liệu pháp

Tôn giáo mang lại sự an ủi lớn cho nhiều người. Thực tế, Karl Marx, Sigmund Freud, Friedreich Nietzsche và B.F. Skinner đều cho rằng một đặc điểm nổi bật của tôn giáo là hoạt động như một cơ chế phòng thủ. Nó là một liều thuốc xoa dịu nỗi đau và là một cái nạng giúp chúng ta không ngã.

Nhưng vào những năm 1980, giáo viên Phật giáo John Welwood đã đặt ra thuật ngữ tránh né tâm linh để lập luận về mức độ gây hại của điều này. Theo Welwood, tránh né tâm linh là những ý tưởng và thực hành tâm linh để né tránh những vấn đề cá nhân, cảm xúc chưa hoàn thiện, để củng cố cái tôi yếu đuối, hoặc để xem thường những nhu cầu, cảm xúc và nhiệm vụ phát triển cơ bản. Nói cách khác, đó là khi tín đồ tôn giáo sử dụng niềm tin của họ để né tránh nhu cầu thực sự là đối mặt với các triệu chứng của mình. Họ ẩn giấu, thay vì giải quyết, một số nhu cầu tâm lý nhất định. Hãy xem xét hai ví dụ:

Harriet bị trầm cảm, và cô ấy nhờ bạn của mình là Jane giúp đỡ. Jane nói, Hãy cầu nguyện với Chúa. Chúa sẽ giúp. Và thế là Harriet làm theo: Mỗi đêm, cô ấy cầu nguyện rằng Chúa sẽ xóa đi sự ghét bỏ bản thân và sự mệt mỏi của cô. Cô cầu nguyện rằng mình sẽ cảm thấy tốt hơn.

Bây giờ hãy tưởng tượng Philip. Cha của anh ấy đã qua đời, và Philip rất yêu thương cha mình và cảm thấy sự đau đớn do cái chết của cha đang xé nát anh. Vì vậy, anh ấy tìm đến các thực hành Phật giáo về sự buông bỏ. Anh ấy thiền trong nhiều ngày và đọc tài liệu Phật giáo vào ban đêm. Anh ấy tin rằng nỗi khát khao về người cha đã mất của mình là sai. Đó là do dục vọng mà ra.

Trường hợp của Philip liên quan đến câu hỏi của Jiri. Đây là một người đang sử dụng sự buông bỏ như một cơ chế đối phó. Hoặc, như Welwood nói, để tránh né tâm linh nhu cầu thực sự của anh ấy là đối mặt với các vấn đề liên quan đến cha của mình. Vì vậy, ít nhất đối với Welwood, sự buông bỏ là không lành mạnh khi nó được sử dụng như một thay thế cho liệu pháp.

Welwood là một Phật tử, và lập luận của ông không phải chống lại tôn giáo. Welwood đang nói rằng tôn giáo không phải là một phương thuốc hay sự thay thế – không phải là một sự thay thế cho liệu pháp và sự giúp đỡ thực sự. Nhưng điều đó không có nghĩa là các ý tưởng Phật giáo về sự buông bỏ và dập tắt dục vọng là không lành mạnh tự thân. Thực tế, có thể có rất nhiều sự thật trong đó.

Sự khác biệt là một Phật tử (hoặc một người Khắc kỷ) cần được hướng dẫn về cách buông bỏ đúng cách. Và sự hướng dẫn này – hoặc cuộc hành trình tâm linh – là dài, phức tạp và tinh tế. Sự buông bỏ thực sự không phải là chạy trốn khỏi cảm xúc mà là đối mặt với chúng một cách toàn diện và giải phóng sự bám víu không lành mạnh gây ra đau khổ. Một thực hành Phật giáo lành mạnh bao gồm việc thừa nhận cảm xúc, ngay cả những cảm xúc đau đớn, mà không bị chúng áp đảo.

Ví dụ, học giả Phật giáo thế kỷ thứ 8, Shantideva, đã viết rất nhiều về cách trau dồi sự buông bỏ đúng cách trong tác phẩm Bodhicaryavatara (Con đường của Bồ Tát). Ông lập luận rằng buông bỏ không phải là tránh né cảm xúc hay các mối quan hệ mà là nhận ra bản chất vô thường của chúng trong khi vẫn hành động với lòng từ bi. Shantideva dạy rằng cảm xúc, giống như mọi thứ khác, đều là vô thường, và việc hiểu điều này giúp chúng ta giải phóng khỏi sự bám víu. Nhưng điều đó không có nghĩa là quay lưng lại với trải nghiệm cảm xúc tự thân.

Nếu chúng ta quay lại với Philip, Shantideva sẽ khuyên anh ấy không nên sử dụng sự buông bỏ để kìm nén nỗi đau mất cha. Thay vào đó, anh ấy nên cho phép mình cảm nhận nỗi đau của sự mất mát một cách toàn diện, mà không bám víu vào mong muốn mọi thứ khác đi. Quá trình đau buồn của Philip nên bao gồm việc hiểu rằng mặc dù cha anh ấy đã ra đi, nhưng tình yêu và mối liên kết giữa họ là thực sự và có ý nghĩa. Điều này cho phép Philip tích hợp sự mất mát vào cuộc sống của mình một cách lành mạnh, thay vì sử dụng sự buông bỏ như một tấm khiên chống lại công việc cảm xúc mà anh ấy cần phải làm.

Tìm kiếm nhà hiền triết của bạn

Vấn đề mà Jiri đúng đắn chỉ ra không phải là sự buông bỏ là xấu mà là làm thế nào chúng ta biết khi nào nó đã đi quá xa. Từ vị trí toàn tri nhìn vào cuộc sống hư cấu của Philip, chúng ta có thể thấy rõ rằng anh ấy có một kiểu buông bỏ không lành mạnh. Nhưng chúng ta được ban cho thông tin về cuộc sống cảm xúc bên trong của anh ấy. Khi chúng ta phản ánh về cuộc sống cảm xúc của chính mình – hoặc thậm chí là những gì chúng ta chứng kiến xung quanh – mọi thứ trở nên rối rắm hơn. Vậy làm thế nào chúng ta biết sự buông bỏ là tốt hay xấu?

Không có giải pháp dễ dàng, chắc chắn, nhưng tôi sẽ đề xuất rằng một ý tưởng là dựa vào những gì Aristotle gọi là phronimos. Đây là những người khôn ngoan, đã thấy qua mọi thứ, những người mà bạn tìm đến khi cần lời khuyên quan trọng. Bạn có lẽ biết kiểu người này – họ thường là bố mẹ hoặc ông bà nhưng cũng có thể là người già là

nh nghề tại nơi làm việc. Trong trường hợp này, phronimos là giáo viên Phật giáo nhiều thập kỷ hoặc học giả Khắc kỷ. Họ là những người đã thấy nhiều trường hợp và biết bạn đang ở đâu. Hoặc, đối với những người không thích cuộc sống với những huấn luyện viên triết học, một nhà trị liệu giỏi cũng là một lựa chọn. Một nhà trị liệu kỳ cựu không chỉ đáng giá với nền giáo dục chính quy mà còn với kinh nghiệm của họ: Họ đã thấy các dạng bám víu lành mạnh và không lành mạnh và thường có thể xác định của bạn chỉ sau vài buổi.

Vì vậy, để đưa ra một kết luận bất ngờ mà dứt khoát, tôi sẽ nói rằng: Đúng, một số loại buông bỏ có thể không lành mạnh, nhưng cách duy nhất để đánh giá điều này là dựa vào một nhà hiền triết, người sáng suốt và thông thái trong cuộc sống của bạn.

nhavantuonglai

Share:
Quay lại.

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »
Hiệu lực cầu nguyện | Chương 01

Hiệu lực cầu nguyện | Chương 01

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng lập Làng Mai truyền cảm hứng Phật giáo dấn thân chánh niệm giúp con người tĩnh tâm hạnh phúc hòa hợp thiên nhiên.

Hiểu về trái tim | Chương 28

Hiểu về trái tim | Chương 28

Hiểu về trái tim giúp hiểu và chữa lành trái tim tâm hồn của mình để mọi người cùng được sống trong hạnh phúc và yêu thương.

Hiểu về trái tim | Chương 30

Hiểu về trái tim | Chương 30

Hiểu về trái tim giúp hiểu và chữa lành trái tim tâm hồn của mình để mọi người cùng được sống trong hạnh phúc và yêu thương.

Hạnh phúc cầm tay | Chương 01

Hạnh phúc cầm tay | Chương 01

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng lập Làng Mai truyền cảm hứng Phật giáo dấn thân chánh niệm giúp con người tĩnh tâm hạnh phúc hòa hợp thiên nhiên.

Trồng một nụ cười | Chương 10

Trồng một nụ cười | Chương 10

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng lập Làng Mai truyền cảm hứng Phật giáo dấn thân chánh niệm giúp con người tĩnh tâm hạnh phúc hòa hợp thiên nhiên.

Hiểu về trái tim | Chương 04

Hiểu về trái tim | Chương 04

Hiểu về trái tim giúp hiểu và chữa lành trái tim tâm hồn của mình để mọi người cùng được sống trong hạnh phúc và yêu thương.

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.