Nhiều tác giả | Người thầy của tỉnh thức và thương yêu (Chương 16)

Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường Xưa Mây Trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh.

 · 38 phút đọc.

Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường Xưa Mây Trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà sư, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội và hòa bình nổi tiếng trên thế giới. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân. Ông cũng là người đưa ra khái niệm chánh niệm, một phương pháp tu tập và sống đời giúp con người tĩnh tâm, hạnh phúc và hòa hợp với bản thân, với mọi người và với thiên nhiên.

Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

tuyen-tap-sach-cua-thien-su-thich-nhat-hanh

tuyen-tap-sach-cua-thien-su-thich-nhat-hanh

Melvin McLeod. Đăng trên tạp chí Lion_s Roar – ngày 1.3.2006.

Là chủ bút của tạp chí Lion_s Roar (trước đây là Shambhala Sun), một trong những phần việc thú vị nhất của tôi là được vinh hạnh pháp đàm một cách nghiêm túc, thậm chí thân mật, với các bậc thầy lớn. Là một người học Phật trước khi là một phóng viên, những câu hỏi tôi đưa ra thường có ý nghĩa sâu sắc với tôi với tư cách một con người và một hành giả. Kết quả của những cuộc tham vấn này là một bản đúc kết những lời dạy mà tôi đã tiếp nhận, hơn là một bài phỏng vấn theo tiêu chuẩn thông thường. Đây là một vinh dự và một đặc ân cho tôi, mong rằng bạn đọc cũng được lợi lạc từ đó.

Tôi gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại tu viện Lộc Uyển gần San Diego, một nơi hòa lẫn các yếu tố Đông và Tây, hiện đại và tao nhã, chánh niệm và vui tươi. Tu viện nằm giữa một thung lũng nhỏ, khéo tách rời khỏi khu vực ngoại ô chỉ cách đó một dặm. Những dãy nhà trệt và thấp gợi lên cảm giác tạm thời, dã chiến của một trại binh (đây từng là khu trại của hội khỏa thân và trung tâm huấn luyện cảnh sát), nhưng ngôi thiền đường thanh lịch mới xây lên thì lại hết sức đồ sộ uy nghiêm. Bên ngoài, các sư chú trẻ người Mỹ gốc Việt chơi bóng rổ trong khi các sư cô lớn tuổi, đầu đội nón lá, đang quét sân, các thiền sinh thì đang chăm chỉ pháp đàm. Thức ăn sáng được bày ra gồm các món chay Việt Nam bên cạnh Corn Flakes (cốm bắp ăn với sữa) và bơ đậu phụng. Khi có tiếng chuông đồng hồ, mọi hoạt động đều dừng lại để mọi người thực tập quay về với hơi thở chánh niệm.

Tôi được hầu chuyện với Thiền sư Thích Nhất Hạnh độ hơn một giờ, sau đó Thầy đưa cho tôi các thư pháp mà Thầy đã viết để làm quà cho tạp chí Shambhala Sun. Mặc dầu Thầy thường được biết đến nhiều nhất qua các nhận định sâu sắc trong lĩnh vực chính trị và các công tác xây dựng cộng đồng, nhưng tôi nhận ra nơi Thầy còn nhiều điều hay hơn thế. Tôi đã gặp một vị thầy đúng nghĩa trên nhiều phương diện, thâm sâu và chứng đạt, chú trọng cả tu tập lẫn xây dựng tăng thân, thấm nhuần vừa giáo pháp truyền thống vừa biết rõ hướng đi của thế giới ngày nay. Lời nói của Thầy đi thẳng vào trái tim tôi. Nếu có cơ duyên để nghe Thầy giảng, xin bạn đừng bỏ lỡ. Chữ nghĩa in trong sách báo không sao sánh được, không diễn tả hết được con người thật của Thầy.

Melvin McLeod: Tôi nhận thấy quanh tu viện này có nhiều câu thiền ngữ nhắc mọi người thực tập chánh niệm, trở về với hơi thở, với thân, và nhận ra tự tánh của mình. Trong giờ ăn, mọi người đều dừng lại khi nghe tiếng chuông đồng hồ trong phòng ăn để thực tập hơi thở chánh niệm. Tại sao việc trở về với hơi thở, đưa tâm về với thân, và có mặt trong giờ phút hiện tại lại quan trọng như vậy?

Thầy: Thiền tập nghĩa là quay về với chính mình. Nhờ vậy mà mình biết chăm sóc những gì đang xảy ra bên trong mình, cũng như những gì đang xảy ra chung quanh mình. Các bài thiền tập đều nhằm đưa mình trở về với tự thân, về với quê hương đích thực của mình. Nếu không biết khôi phục sự bình an nơi tự thân, không giúp thế giới khôi phục sự bình an, chúng ta sẽ không đi xa được trong sự tu tập.

Cái ngã chân thật – cái ngã mà mình quay về – và cái mà chúng ta thường cho đó là mình khác nhau như thế nào?

Cái ngã chân thật của mình là vô ngã, hay nói cách khác: Cái mà mình gọi là ngã được làm bằng những yếu tố không phải là ngã. Không có sự tách biệt giữa ta và người, vạn vật đều liên đới, gắn kết với nhau. Một khi nhận thức được điều đó, ta sẽ không còn kẹt vào ý niệm ta là một thực thể riêng biệt.

Chuyện gì xảy ra khi ta nhận ra rằng tự tánh của ta là vô ngã, là không có cái ta riêng biệt?

Nhận thức này đưa tới tuệ giác, đưa tới một cái thấy thật thâm sâu. Ta biết rằng hạnh phúc, khổ đau của ta tùy thuộc vào hạnh phúc, khổ đau của người khác. Tuệ giác này giúp ta không làm những việc đưa tới khổ đau cho mình và cho người. Nếu ta tìm cách giúp cho cha mình bớt khổ thì ta cũng được bớt khổ. Nếu ta có thể giúp cho con mình bớt khổ thì ta cũng sẽ bớt khổ. Nhờ nhận thức được rằng không có một cái ta riêng biệt, ta nhận ra rằng hạnh phúc và khổ đau không phải là vấn đề của cá nhân. Ta nhận ra tính tương quan, tương duyên (trong đạo Bụt gọi là tương tức), và ta biết rằng muốn bảo vệ chính mình thì ta phải bảo vệ cả những người xung quanh mình.

Nhận ra được tự tính vô ngã và tương tức, đó là mục đích của sự tu tập. Đây không phải là một ý niệm hay một điều ta chỉ hiểu trên bề mặt ý thức. Chúng ta cần áp dụng tuệ giác này vào đời sống hằng ngày. Vì vậy ta cần phải có định để duy trì tuệ giác vô ngã để tuệ giác ấy có thể soi sáng cho ta từng giây từng phút trong đời sống hằng ngày. Bây giờ các nhà khoa học đã thấy được tính vô ngã nơi não bộ, nơi thân thể, và nơi mọi sự vật. Nhưng khám phá ấy không giúp được gì cho họ, bởi vì họ không áp dụng được tuệ giác ấy vào đời sống hằng ngày của mình. Vì vậy họ vẫn khổ. Cũng vì lý do đó mà trong đạo Bụt chúng ta nói đến định. Nếu ta có tuệ giác về vô ngã, nếu ta có tuệ giác về vô thường, ta phải biến tuệ giác đó thành định – một loại năng lượng giúp ta duy trì được tuệ giác đó suốt cả ngày. Những gì mình nói, mình nghĩ, mình làm sẽ được soi sáng bởi tuệ giác đó, và mình sẽ tránh gây ra lầm lỗi, khổ đau.

Như vậy thực tập chánh niệm là để duy trì tuệ giác vô thường và tương tức trong tất cả mọi thời.

Đúng vậy.

Con người chúng ta thường nói rằng tình thương là trên hết. Chúng ta muốn thương; chúng ta muốn được thương. Chúng ta biết tình thương là thuốc chữa lành mọi căn bệnh. Nhưng làm sao để tìm thấy tình thương trong trái tim mình? Thường thì điều này không hề dễ dàng.

Thương là khả năng chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng. Nếu ta không phát khởi được năng lượng đó cho chính ta – nếu ta không chăm sóc được mình, không nuôi dưỡng được mình, không bảo hộ được mình – thì rất khó mà chăm sóc cho kẻ khác. Trong giáo lý đạo Bụt, thương mình chính là nền tảng để thương người. Thương yêu là một sự thực tập. Thương yêu thật sự là một sự thực tập.

Tại sao mình lại không thương được mình?

Có thể là do chúng ta có thói quen đi tìm hạnh phúc ở một nơi nào khác, mà không phải là trong hiện tại, bây giờ và ở đây. Chúng ta không có khả năng nhận ra rằng hạnh phúc là điều có thể có được ngay bây giờ và ở đây, rằng chúng ta đã có đủ các điều kiện để hạnh phúc ngay trong giờ phút này. Chúng ta quen nghĩ rằng hạnh phúc không thể có được ngay trong giờ phút này, rằng mình phải đi về tương lai để có thêm những điều kiện hạnh phúc. Thói quen này ngăn không cho chúng ta an trú trong giờ phút hiện tại, không cho chúng ta tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt bây giờ và ở đây. Đó là lý do tại sao ta không hạnh phúc được.

Trở về với giây phút hiện tại, chăm sóc chính mình, tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống đang thật sự có mặt, đó đã là thương rồi. Thương là tử tế với chính mình, có lòng xót thương với chính mình, làm phát khởi niềm vui, và nhìn mọi người bằng đôi mắt bao dung, không kỳ thị. Đó là điều mình phải trau dồi. Vô ngã là điều mà mình có thể chứng nghiệm được. Từ từ chúng ta có thể tiếp xúc được với vô ngã. Khi khám phá một điều gì, ban đầu ta có thể khám phá được một phần thôi. Nếu tiếp tục, ta có thể có cơ hội khám phá nhiều hơn. Và cuối cùng ta khám phá ra toàn bộ. Khi thương, nếu đó là tình thương chân thực, ta bắt đầu thấy người kia là một phần của mình và mình là một phần của người kia. Đạt tới nhận thức đó là đã bắt đầu có tuệ giác vô ngã. Nếu ta nghĩ rằng hạnh phúc của ta là khác, hạnh phúc của người kia là khác thì ta chưa thực chứng được chút gì về vô ngã và hạnh phúc không thể nào có được.

Khi ta tiếp xúc được nhiều hơn với tuệ giác vô ngã thì tình thương trong ta sẽ lớn lên và nhờ đó hạnh phúc sẽ tăng trưởng. Khi hai người thương nhau, những ngăn cách, phân chia, giới hạn giữa hai người bắt đầu tan biến, ta trở thành một với người ta thương, không còn ganh tị, giận hờn nữa. Tại vì giận người kia tức là mình tự giận mình rồi. Vì vậy vô ngã không phải là một học thuyết, giáo điều, hay một hệ tư tưởng mà là một sự chứng nghiệm có thể mang lại rất nhiều hạnh phúc.

Và mang lại hòa bình.

Hẳn vậy. Hòa bình là sự vắng bóng của chia rẽ, kỳ thị.

Thầy nổi tiếng với những lời dạy về xây dựng cộng đồng mà trong đạo Bụt gọi là xây dựng tăng thân. Qua những thực tập như Mười Bốn Giới Tiếp Hiện, Thầy định nghĩa chánh niệm trong chiều hướng có tính cách xã hội, thậm chí chính trị. Thầy dạy về các phương pháp truyền thông và sức mạnh của ái ngữ và lắng nghe. Tại sao Thầy lại nhấn mạnh đến việc xây dựng cộng đồng và quan hệ giữa người với người?

Khi ta đã có kinh nghiệm trong sự tu tập – có sự an lạc, chuyển hóa, và trị liệu, dựa trên nền tảng đó mà ta giúp cho người khác. Ta không chỉ tu tập với tư cách cá nhân, vì trên đường thực tập ta sẽ sớm nhận ra rằng ta cần phải thực tập chung với một cộng đồng, nếu ta muốn sớm có sự chuyển hóa và trị liệu. Đạo Bụt gọi đó là nương tựa tăng.

Khi thực tập chung với nhau, năng lượng của niệm, định và niềm vui sẽ hùng mạnh hơn. Đó là điều Bụt thích làm. Ngài đi đâu cũng có nhiều đệ tử đi theo, nhờ vậy mà các vị xuất gia này học được từ Bụt cách đi, cách ngồi và cách tiếp xử. Và tăng đoàn bắt đầu hoạt động như một cơ thể, ai cũng góp phần vào năng lượng chung – năng lượng bình an, hỷ lạc, định tĩnh và tình huynh đệ.

Đồng thời, mọi người trong tăng đoàn đều nói thay cho Bụt, không phải chỉ bằng lời mà qua cách họ hành động và cư xử với mọi người. Đó là lý do vì sao vua Ba Tư Nặc nói với Bụt: Bạch đức Thế Tôn, mỗi khi nhìn thấy tăng đoàn của Ngài, con lại có thêm niềm tin nơi Ngài. Vua muốn nói rằng tăng thân có khả năng đại diện cho Bụt. Với tăng thân, Bụt có thể thành tựu được nhiều điều. Tôi không nghĩ một vị thầy có thể làm được gì nhiều nếu không có tăng thân; cũng như một nhạc sĩ không thể biểu diễn được nếu không có nhạc cụ. Tăng thân rất quan trọng – tuệ giác và sự tu tập của một vị thầy có thể được nhìn thấy qua tăng thân. Khi ta chia sẻ giáo pháp và sự thực tập với tư cách một tăng thân thì hiệu quả sẽ lớn hơn nhiều.

Như vậy để giáo pháp thật sự có sức mạnh, trên thực tế, chúng ta phải chuyển hóa không chỉ chính mình mà cả xã hội?

Đúng vậy, đó là tinh thần của Đại thừa (Mahayana), là cùng đi với nhau trên một cỗ xe lớn. Đó là lý do vì sao đạo Bụt phải luôn luôn nhập thế. Ta sẽ không làm được điều đó nếu ta tách mình ra khỏi xã hội. Vì vậy mà ngay trong cái gọi là Tiểu thừa (Hinayana), ta có thể thấy sự có mặt của Đại thừa rồi.

Thầy có nghĩ rằng một trong những lý do khiến Thầy nhấn mạnh đến việc xây dựng cộng đồng và xã hội như một sự thực tập là do cuộc chiến tranh khốc liệt mà Thầy đã chứng kiến ở Việt Nam? Phải chăng việc chứng kiến xã hội bị tàn phá bởi chiến tranh, những hy sinh mất mát, đã làm tăng thêm mối quan tâm của Thầy đối với đời sống cộng đồng?

Tôi nghĩ điều này có phần đúng. Đó là tuệ giác ta có được khi tiếp xúc với thực trạng. Nhưng trong truyền thống đạo Bụt đã có sự chú trọng đến việc xây dựng tăng thân. Người Phật tử nào cũng tụng: Con về nương tựa Tăng, nhưng Tăng được làm bằng những cá nhân có tu tập. Vì vậy ta phải biết tự chăm sóc chính mình. Nếu ta không có đủ bình an, vững chãi và tự do trong lòng thì ta không có gì nhiều để đóng góp cho tăng thân. Đó là lý do vì sao muốn xây dựng tăng thân, ta cũng phải đồng thời chăm sóc chính mình. Tăng thân có trong ta và ta có trong tăng thân. Yếu tố này đi vào yếu tố kia. Đó là lý do tại sao tôi chú trọng đến việc xây dựng tăng thân. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta không chú trọng đến việc tự tu. Chính nhờ chăm sóc tốt hơi thở, thân tâm, cảm thọ của chính mình mà ta có thể xây dựng một tăng thân tốt.

Thầy đã sống ở Tây phương nhiều năm. Thầy nghĩ nên trình bày đạo Bụt theo cách nào để đáp ứng được những nhu cầu, mong mỏi của người Tây phương?

Tôi nghĩ đạo Bụt nên mở ra cánh cửa của tâm học và trị liệu để đi vào xã hội Tây phương dễ dàng hơn. Đứng về phương diện tôn giáo, người Tây phương đã có nhiều đức tin nơi một đấng thần linh rồi. Mình không nên đi vào địa hạt tâm linh của Tây phương theo cửa ngõ của đức tin, bởi vì Tây phương đã có nhiều rồi.

Vậy thì tâm học là cánh cửa rất hay. Nền văn học A-tỳ – đạt-ma (Abhidharma) và học phái Duy thức trong đạo Bụt tiêu biểu cho sự hiểu biết rất phong phú về tâm, đã được khai triển qua nhiều thế hệ hành giả. Nếu đến với người Tây phương bằng con đường tâm học, ta có thể thành công hơn trong việc giúp người Tây phương hiểu được tâm họ, giúp họ thực tập như thế nào để chữa lành được thân tâm.

Thân và tâm liên hệ mật thiết với nhau, và chúng ta có thể nói thiền tập đạo Bụt có khả năng trị liệu cho thân và tâm. Chúng ta có thể thấy điều này rất rõ khi học các kinh căn bản về thiền tập như Kinh Quán Niệm Hơi Thở và Kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm. Thiền tập giúp ta buông bỏ những căng thẳng – nơi thân thể, tâm hồn, cảm xúc – để cho thân tâm có cơ hội được trị liệu, được chữa lành. Cho dù ta uống nhiều thuốc đi nữa mà nếu thân, tâm còn quá nhiều căng thẳng thì thuốc cũng sẽ ít công hiệu. Vì vậy Bụt đã đưa ra những bài tập rất thực tế như: Thở vào, tôi ý thức toàn thân; thở ra tôi buông thư toàn thân. Thở vào tôi ý thức về cảm xúc đang có mặt trong tôi, thở ra tôi làm lắng dịu cảm xúc. Tôi ôm lấy thân và cảm xúc trong tôi bằng năng lượng chánh niệm.

Sự thực tập buông thư những căng thẳng nơi thân tâm là nền tảng của sự trị liệu. Ban đầu sự thực tập này giúp ta giảm bớt căng thẳng. Rồi khi ta có nhiều niệm và định hơn, ta thực tập nhìn sâu vào những đau nhức, căng thẳng đó và tìm ra những gốc rễ sâu xa, nguyên nhân của căn bệnh. Ta khám phá ra sự thật thứ hai của Tứ diệu đế. Ta có thể nhận ra nguồn gốc của sự căng thẳng, trầm cảm, nguồn gốc của căn bệnh. Một khi đã nhìn ra nguyên nhân của khổ, tức sự thực thứ hai, ta bắt đầu nhìn thấy sự thực thứ tư của Tứ diệu đế, con đường dẫn đến sự chấm dứt bệnh tật, căng thẳng, khổ đau. Thấy được con đường là phần quan trọng nhất. Nếu ta đi theo con đường đó, chẳng bao lâu bệnh tật sẽ biến mất, nhường chỗ cho sự lành mạnh – sự thực thứ ba của Tứ diệu đế. Vì vậy, nguyên tắc hành trì của đạo Bụt cũng giống như nguyên tắc trị liệu trong y học.

Một cánh cửa khác nên mở là cánh cửa về sinh thái học (ecology), vì trong đạo Bụt có sự tôn trọng sâu sắc đến cầm thú, cỏ cây, và cả đất đá. Trong đạo Bụt Đại thừa, chúng ta nói ai cũng có Phật tánh – không chỉ con người mà cả cầm thú, cỏ cây, và đất đá. Học kinh Kim Cương, ta sẽ thấy kinh Kim Cương là văn kiện cổ nhất về bảo vệ sinh môi. Ý niệm về ngã, về cái ta, bị đánh đổ, vì cái ta được làm bằng những yếu tố không phải ta, và ý niệm về loài người cũng được đánh đổ, vì loài người được làm bằng những yếu tố không phải người, trong đó có cầm thú, cỏ cây, và đất đá, v.v… Điều đó có nghĩa là muốn bảo vệ con người, ta phải bảo vệ những yếu tố không phải người. Điều đó rất rõ ràng.

Vậy cánh cửa sinh thái học là cánh cửa rất tuyệt vời để bước vào xã hội Tây phương. Và thêm một cánh cửa nữa, đó là cánh cửa hòa bình, vì đạo Bụt là đạo của hòa bình. Một Phật tử chân chính không thể từ chối làm việc cho hòa bình. Ngoài ra còn có cánh cửa bình đẳng giới. Bụt đã mở cửa cho phụ nữ gia nhập tăng đoàn, đó là một hành động rất cách mạng của Ngài.

Tôi nghĩ những cánh cửa phương tiện này cần được mở rộng để người Tây phương có thể tiếp nhận được giáo pháp đích thực của Bụt. Những pháp môn này đều nằm sẵn trong gốc rễ đạo Bụt, nhưng nhiều thế hệ Phật tử đã đánh mất các giá trị ấy. Những người Phật tử nên thực tập như thế nào để khôi phục lại những giá trị ấy của đạo Bụt để có thể hiến tặng cho nhiều người.

Ngược lại, Thầy có thấy điều gì trong tư tưởng và kiến thức Tây phương có thể đóng góp cho Phật giáo?

Tôi nghĩ dân chủ và khoa học có thể giúp Phật giáo, nhưng không phải theo cách mà mọi người thường nghĩ. Chúng ta biết rằng sự thực tập dân chủ vốn đã có sẵn trong truyền thống đạo Bụt. Nhưng nếu đem so với dân chủ Tây phương, ta thấy dân chủ đạo Bụt đặt căn cứ trên thực tế nhiều hơn, vì lá phiếu của một người thầy có nhiều tuệ giác và kinh nghiệm có nhiều trọng lượng hơn lá phiếu của một vị sa di ít tuệ giác và kinh nghiệm. Vì vậy, trong đạo Bụt việc biểu quyết cần phải phối hợp giữa hai nguyên tắc dân chủ và thâm niên. Đó là điều có thể làm được. Chúng tôi đã làm điều này, với rất nhiều thành công, trong cộng đồng của chúng tôi, bởi vì những người trẻ và ít kinh nghiệm hơn thường tin tưởng và kính trọng những vị lớn. Nhưng ta biết có nhiều cộng đồng Phật giáo không theo cách đó; vị thầy quyết định tất cả và họ đánh mất chế độ dân chủ. Bây giờ chúng ta phải khôi phục lại chế độ dân chủ, nhưng không phải theo cách người ta làm ở Tây phương. Chúng ta phải phối hợp chế độ dân chủ với tinh thần thâm niên.

Riêng tôi, việc học khoa học đã giúp tôi hiểu đạo Bụt sâu hơn. Tôi đồng ý với Einstein rằng nếu có một tôn giáo có thể đồng hành với khoa học thì đó là đạo Bụt. Bởi vì đạo Bụt có tinh thần không chấp chặt vào giáo điều. Ta có thể có một cái hiểu về khoa học mà ta cho đó là sự thật, nhưng nếu ta chấp vào cái thấy đó thì ta cũng từ bỏ luôn cơ hội khám phá thêm những cái thấy mới. Chúng ta nên biết rằng với sự thực tập nhìn sâu, ta có thể có cái thấy rõ ràng hơn về đối tượng nghiên cứu. Vì vậy ta không nên có thái độ giáo điều đối với những gì mình từng thấy biết. Ta phải sẵn sàng buông bỏ cái thấy, cái biết của mình về khoa học để có được cái thấy sâu hơn. Rất là thú vị.

Trong kinh Kalama – kinh dạy cho những người trẻ thuộc bộ tộc Kalama, Bụt nói: Đừng vội tin vào một điều gì dù điều đó đã được lập đi lập lại bởi nhiều người. Đừng vội tin điều gì vì nó được các bậc thầy nổi tiếng nói ra. Đừng vội tin vào một điều gì dù điều đó đã được chép trong kinh điển. Ta phải quán sát, thử nghiệm và thực hành; nếu như nó có hiệu quả, nếu như nó giúp mình chuyển hóa khổ đau và mang lại an lạc, tự do thì ta có thể tin tưởng vào nó một cách rất khoa học.

Tôi nghĩ người Phật tử không nên sợ khoa học. Khoa học có thể giúp ta hiểu sâu hơn lời dạy của Bụt. Chẳng hạn như trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra), Bụt có dạy: Cái một được làm bằng cái tất cả, cái tất cả được làm bằng cái một (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất). Điều này có thể chứng minh được bởi khoa học. Từ một tế bào người ta có thể làm ra một cơ thể toàn vẹn. Toàn bộ gia tài di truyền có thể được tìm thấy trong một tế bào và từ một tế bào chúng ta có thể làm lại một bản giống y hệt bản chính của toàn bộ cơ thể. Trong cái một mình chứa đựng cái tất cả. Những kiến thức khoa học này giúp mình hiểu giáo lý của Bụt một cách sâu sắc hơn.

Vì vậy không có lý do gì để Phật tử phải sợ khoa học cả, nhất là khi họ có khả năng buông bỏ cái thấy hiện có của mình để đạt tới một cái thấy sâu hơn, cao hơn. Và trong đạo Bụt cái thấy cao nhất là cái thấy vượt thoát mọi cái thấy, vượt thoát mọi ý niệm. Ta tưởng sự vật là thường còn, là không đổi thay thì ta bị kẹt vào một cái thấy sai lầm gọi là thường kiến. Và ta dùng vô thường để chỉnh lại cái tưởng là sự vật thường còn. Nhưng ta không để cho mình bị kẹt vào cái ý niệm vô thường. Khi ta có tuệ giác, ta thấy được cái chân tánh của sự vật thì chẳng những ta buông bỏ ý niệm là mọi vật luôn thường còn, mà cũng buông bỏ được luôn cái ý niệm về vô thường. Cũng như khi ta quẹt que diêm, ngọn lửa biểu hiện từ que diêm sẽ đốt luôn que diêm. Khi ta quán chiếu thật sâu thì ta đạt đến tuệ giác về vô thường; và tuệ giác về vô thường sẽ đốt cháy cái ý niệm về vô thường.

Đó là lý do vì sao tinh thần phá chấp trong đạo Bụt – không kẹt vào cái thấy, vào quan niệm của mình – rất mầu nhiệm. Vô ngã có thể xem là một ý niệm; vô thường cũng là một ý niệm. Nếu ta bị kẹt vào một ý niệm nào đó như vô ngã, vô thường, niết bàn và cho nó là chân lý thì ta không thật sự tự do. Thế giới của bản môn vượt ra ngoài mọi ý niệm. Vì vậy, niết bàn là sự tắt ngấm mọi ý niệm. Những ý niệm – dù là ý niệm về niết bàn, về vô thường và về vô ngã – có thể mang tới khổ đau nếu chúng ta sử dụng chúng để chống đối nhau.

Tôi thật sự thích thú khi nghe Thầy giảng về những điều mà các truyền thống Phật giáo khác gọi là sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối. Thầy thì gọi đó là bình diện tích môn và bình diện bản môn. Rất nhiều điều Thầy dạy chú trọng đến sự thật tương đối hay bình diện tích môn, như là nguyên tắc tương quan tương duyên mà Thầy hay gọi là tương tức (inter-being). Đó có phải là cách Thầy diễn tả thực tại toàn vẹn hay không? Hay còn một thực tại nằm ngoài tuệ giác tương tức?

Trong đạo Bụt có hai cách tiếp cận thực tại: dựa trên bình diện tướng và dựa trên bình diện tánh. Tông phái Trung Quán (Madhyamika) và thiền Tào Động đều hướng dẫn thiền giả đi thẳng vào tánh chân thật của mình. Còn trong trường phái Duy thức thì thiền giả được dạy về nguyên tắc tùng tướng nhập tánh, nghĩa là tiếp xúc sâu sắc với tướng, với thế giới hiện tượng thì ta sẽ đi vào tánh – bản thể của thực tại hay bản môn. Bản môn không tách rời thế giới tích môn. Tiếp xúc sâu sắc với tích môn, ta sẽ tiếp xúc được với bản môn. Cũng như một lượn sóng. Ta có thể thấy sự phát sinh và sự chấm dứt của một lượn sóng. Có những lượn sóng to, có những lượn sóng nhỏ, lượn sóng cao, lượn sóng thấp. Nhưng lượn sóng cũng đồng thời là nước. Dĩ nhiên là lượn sóng có thể chỉ sống được đời sống của một lượn sóng thôi. Nhưng một lượn sóng có thể thấy mình vừa là sóng vừa là nước. Sóng thì có sinh ra và có bị tan biến (chết đi) nhưng nếu lượn sóng chịu nhìn sâu hơn và thấy rõ mình vừa là sóng mà cũng vừa là nước thì sóng sẽ không còn sợ hãi. Sinh ra, tan biến, đến, đi không làm cho sóng sợ hãi vì sóng biết mình vừa là sóng mà cũng vừa là nước. Nước thì không sinh ra, không chết đi, không đến, cũng không đi đâu hết. Khi nhân duyên đầy đủ thì sóng biểu hiện, khi nhân duyên không đầy đủ thì sóng ẩn tàng. Vì thế sóng cũng có hai bình diện: tích môn – có sinh, có diệt, có đến, có đi, có cao, có thấp; còn bản môn thì không sinh, không diệt, không đến, không đi, không cao, không thấp… Hai bình diện có trong nhau, không chia chẻ. Khi ta tiếp xúc với bình diện này đủ thâm sâu thì đồng thời cũng tiếp xúc luôn bình diện kia.

Tôi có nói chuyện với một số người, hình như họ hiểu rằng khái niệm về tương tức là một lời tuyên bố rằng tất cả vốn là một. Đó cũng vẫn là một ý niệm (kiến). Vậy thì có lẽ ngay cả ý niệm tất cả là một, chúng ta cũng không nên nắm giữ phải không?

Đúng vậy. Một là một khái niệm, mà nhiều cũng là một khái niệm. Cũng như cặp phạm trù có – không (hiện hữu – không hiện hữu) cũng là những khái niệm. Anh nói rằng Thượng Đế là nền tảng của hữu thể (being), vậy thì người ta sẽ hỏi: Thế thì ai là nền tảng của vô thể (non-being)? (cười). Thành ra cái khái niệm về hiện hữu hay khái niệm về không hiện hữu cũng chỉ là những khái niệm, không phải là thực tại. Là một (đồng) hay là khác (dị) cũng là khái niệm. Niết bàn là sự tắt ngấm mọi khái niệm, kể cả khái niệm về một và khái niệm về khác. Vì thế tương tức không có nghĩa là mọi sự vật là một. Nó giúp ta lấy ra hết những cặp khái niệm: một – nhiều, có – không, dị – đồng. Ta buông bỏ hết những khái niệm, những cái thấy chia chẻ.

Thầy nói Bụt là một con người. Nhưng trong đạo Bụt Đại thừa nói có vô lượng Bụt và Bồ tát ở trong mọi cõi đang trải lòng từ đến mình. Làm sao những người Tây phương duy lý chúng tôi có thể hiểu những vị Bụt và Bồ tát này? Làm sao chúng ta có thể mở lòng ra với họ khi chúng ta không thể nhận biết họ qua năm giác quan?

Trong đạo Bụt, Bụt được xem như một vị thầy, một con người, chứ không phải một vị thần linh. Ta cần phải nói cho mọi người biết điều thật sự quan trọng này. Chúng ta không cần Bụt là một đấng thần linh. Ngài là một bậc đạo sư, như vậy là đủ lắm cho chúng ta rồi! Tôi nghĩ chúng ta cần phải nói cho các bạn Tây phương biết như vậy. Chính vì Bụt là một con người, cho nên vô lượng người mới thành Bụt được và vì vậy mà ta mới có vô lượng Bụt.

Bụt có chết không?

Đương nhiên. Đã là một con người thì phải có sinh và có tử. Đó là bình diện tích môn. Nhưng ta phải tiếp xúc với Bụt một cách sâu sắc để tiếp xúc được bình diện bản môn của Ngài. Anh cũng có thể nhìn sâu vào một con người bình thường – không phải là Bụt – như anh hay tôi. Nếu nhìn sâu vào tự thân, ta thấy ta có bình diện tích môn – có sinh và có tử. Nhưng nếu nhìn sâu hơn nữa, ta sẽ thấy bản chất đích thực của ta là vô sinh, bất diệt. Ta cũng giống như Bụt: chưa bao giờ từng sinh và cũng sẽ không bao giờ chết. Vì vậy nhìn vào anh, tôi thấy một vị Bụt; trong mỗi người tôi đều thấy Bụt ở bình diện bản môn. Đó là lý do vì sao ta có thể nói đến vô lượng Bụt. Chính bởi Bụt là một con người nên mới có thể có vô lượng Bụt.

Chúng ta nên nhớ rằng trong tích môn có chứa đựng bản môn. Chúng ta không thật sự có sinh và diệt. Giống như một đám mây. Đám mây không thể nào chết được; đám mây chỉ có thể trở thành mưa, tuyết hay nước đá thôi chứ không thể nào trở thành hư vô. Đó là tự tánh của đám mây – vô sinh bất diệt. Bụt cũng có tự tánh vô sinh bất diệt ấy, và chúng ta cũng vậy.

Chúng ta biết trên trái đất này có nhiều người có trí tuệ lớn và từ bi lớn. Họ là những vị Bụt. Đừng nghĩ rằng Bụt ở đâu xa trên trời. Ta cần tiếp xúc với Bụt ở trong ta; ta cần tiếp xúc với Bụt nơi những người chung quanh. Điều này có thể làm được ngay bây giờ và ở đây, mầu nhiệm như vậy đó.

Bụt đang ở ngay đây. Nếu ta biết thực tập thiền hành thì ta có thể thưởng thức Tịnh độ ngay bây giờ và ở đây. Không phải là ta nói về Tịnh độ, mà ta có thể thực sự nếm được Tịnh độ. Trong truyền thống đạo Bụt, ta cần phải đi như thế nào để mỗi bước chân giúp ta tiếp xúc được với Tịnh độ. Tịnh độ có mặt cho ta ngay bây giờ và ở đây. Vấn đề là ta có thực sự có mặt cho Tịnh độ hay không? Ta có đang bị vướng vào những ganh tị, giận hờn, lo sợ của mình hay không? Nếu thế thì Tịnh độ không thể có mặt. Với niệm và định, ta có thể tiếp xúc với thế giới cực lạc của chư Bụt và Bồ tát ngay bây giờ và ở đây. Đó không phải là lý thuyết. Đó là cái mà chúng tôi sống mỗi ngày, thực tập mỗi ngày. Đó là điều ai cũng làm được.

Nhiều người trong chúng tôi có khả năng làm được việc đó. Khi nói chuyện với các bạn Cơ Đốc giáo, tôi nói là các bạn có thể tiếp xúc với Nước Chúa ngay bây giờ hoặc là không bao giờ cả. Khi ta có tự do, Nước Chúa có đó cho ta. Nếu ta không có tự do, Nước Chúa sẽ không bao giờ có mặt, kể cả trong tương lai. Cùng một giáo lý và sự thực tập có thể được chia sẻ giữa nhiều truyền thống khác nhau.

Thầy đã sống một cuộc sống dài, trải qua một thế kỷ đau thương hơn bất cứ thế kỷ nào, trên một quê hương thống khổ hơn bất cứ quê hương nào. Tôi nghĩ nhiều người đang nhìn vào thế kỷ này, và một lần nữa, nhận ra những mầm mống thảm họa trên cả hai phương diện – con người và thiên nhiên. Theo Thầy, thế giới đang đi về đâu?

Tôi nghĩ trong thế kỷ XX điều nổi bật nhất là chủ nghĩa cá nhân, hơn một trăm triệu người đã chết vì chiến tranh. Có quá nhiều bạo động, có quá nhiều tàn phá sự sống và thiên nhiên. Nếu chúng ta muốn thế kỷ XXI khác hơn, nếu chúng ta muốn trị liệu và chuyển hóa thì chúng ta cần phải nhận thức rằng chúng ta là những phần khác nhau của cùng một cơ thể, rằng sự an nguy của những thành phần khác cũng là sự an nguy của chính ta. Nhận thức này vô cùng quan trọng. Sinh vật học hiện đại đã thấy rằng con người chính là một cộng đồng của hàng tỉ tế bào. Không có tế bào nào là chủ cả; mỗi tế bào trong cơ thể hợp tác với các tế bào khác để tạo ra năng lượng cần thiết giúp cho cơ thể được bảo vệ và phát triển. Chỉ có sự tỉnh thức đó, chỉ có tuệ giác đó – rằng sự an nguy, hạnh phúc, khổ đau của chúng ta không phải là một cái gì riêng rẽ mà là một vấn đề chung – mới có thể ngăn ngừa những tác hại phát sinh từ chủ nghĩa cá nhân của thế kỷ XX.

Tuệ giác vô ngã, tuệ giác tương tức này rất thiết yếu cho sự sống còn của chúng ta và của hành tinh này. Không nên để cho cái thấy nầy chỉ là những khái niệm sách vở; tuệ giác này phải được giữ cho sống động trong đời sống hằng ngày của mỗi chúng ta. Trong trường học, trong ngành doanh thương, trong quốc hội, trong hội đồng thành phố, trong gia đình, chúng ta phải thực tập để nuôi dưỡng tuệ giác rằng chúng ta là những thành phần khác nhau của cùng một cơ thể, rằng bất cứ chuyện gì xảy ra cho các tế bào kia cũng đồng thời xảy ra cho chúng ta. Tuệ giác này hoàn toàn đi đôi với khoa học cũng như đi đôi với tinh thần đạo Bụt. Chúng ta cần học để sống với nhau như một cơ thể.

Tôi đã dành nhiều thời gian để xây dựng tăng thân – những cộng đồng tu học và tôi đã học được nhiều từ đó. Ở Làng Mai, chúng tôi tập sống như một cơ thể. Không ai có xe riêng, tài khoản ngân hàng riêng, điện thoại riêng. Ấy vậy mà chúng tôi vẫn hạnh phúc. Thực tập căn bản của chúng tôi là xem mỗi người như một tế bào của cơ thể, và vì vậy mà tình huynh đệ trở nên sống động. Khi ta được nuôi dưỡng bởi tình huynh đệ thì hạnh phúc có mặt, và nhờ vậy ta có thể làm không biết bao nhiêu là việc để giúp cho mọi người bớt khổ.

Điều này có thể thấy được, xúc chạm được. Đây không phải là điều nói suông. Đây là sự hành trì, là sự thực tập. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân đều là để nuôi dưỡng cộng đồng. Sống trong một cộng đồng như vậy rất mầu nhiệm, vì sự an lạc của người kia cũng chính là sự an lạc của ta. Mang lại hạnh phúc cho một người, ta cũng đem lại hạnh phúc cho từng người trong cộng đồng. Đó là lý do vì sao tôi nghĩ rằng xây dựng cộng đồng, xây dựng tăng thân là công việc quan trọng nhất, cao quý nhất mà chúng ta có thể làm.

Cũng giống như trong lớp học, nếu cô giáo biết cách tổ chức lớp học như một gia đình, học sinh sẽ bớt khổ và có nhiều niềm vui hơn. Trong hội đồng thành phố hay trong một công ty cũng vậy. Những người lãnh đạo công ty có thể tổ chức công ty của mình như một gia đình trong đó mọi người xem nhau là những tế bào trong cùng cơ thể.

Chúng ta biết trong cơ thể chúng ta có nhiều loại tế bào: tế bào gan, tế bào phổi, tế bào thần kinh, v.v… Tế bào nào cũng làm hết sức mình, không có sự ganh tị về địa vị với các tế bào khác, vì không có sự phân biệt. Làm một tế bào gan cho tốt là mình đã nuôi dưỡng các tế bào khác rồi. Tế bào nào cũng đóng góp cái hay nhất của mình để mang lại sự hài hòa, khỏe mạnh cho toàn cơ thể. Không có sự kỳ thị, không có chiến tranh giữa các tế bào, đó là điều mình học được từ ngành sinh học hiện đại. Chúng ta có thể tổ chức theo cách này trong gia đình, lớp học, hội đồng thành phố, quốc hội. Đó là điều có thể làm được, bởi vì nếu các tế bào của chúng ta có thể làm chuyện đó thì con người chúng ta cũng có thể làm được chuyện đó.

Hy vọng Thầy không phiền tôi hỏi câu này, Thầy cũng không cần phải trả lời nếu không tiện. Nhưng tôi rất cảm động khi đọc những gì Thầy viết về mối tình Thầy từng có với một người mà rõ ràng Thầy đã yêu thương rất nhiều và rồi đã từ bỏ mối tình đó. Bây giờ thì Thầy thấy chuyện đó ra sao? Tại thời điểm này của cuộc đời, Thầy có thấy chuyện đó là điều đáng tiếc không?

Tình yêu đó chưa bao giờ mất. Nó vẫn tiếp tục lớn lên. Đối tượng thương yêu của tôi được mở rộng ra mỗi ngày, mỗi ngày, mỗi ngày, cho đến khi tôi có thể ôm được tất cả mọi người. Thương một người là cơ hội mầu nhiệm để mình thương mọi người, nếu như đó là tình thương đích thực. Trong tuệ giác vô ngã, ta thấy đối tượng của tình thương luôn có đó, và tình thương của ta tiếp tục lớn lên. Không có gì mất đi cả, và ta không có gì để hối tiếc, bởi vì nếu ta có tình thương đích thực trong lòng thì ta và tình thương ấy cùng đi về một hướng, và mỗi ngày ta đều có thể thương thêm được nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Vì vậy, thương một người là cơ hội lớn để ta thương được nhiều người hơn.

Thế nhưng trong đời sống xuất gia, Thầy khuyến khích những người muốn trở thành tu sĩ từ bỏ tình yêu ấy. Tại sao lại nên từ bỏ cơ hội thương yêu này?

Khi bước vào đời sống xuất gia, ta phát nguyện làm lớn thêm hiểu biết và thương yêu. Ta muốn có khả năng ôm trọn tất cả mọi người trong tình thương của mình. Vì vậy, như tôi đã nói, thương một người là cơ hội để mình thương được nhiều người. Nhất là khi người kia có cùng lý tưởng với mình, thì càng thương ta càng giàu có và càng hạnh phúc, không có khổ đau gì hết. Là một người xuất gia, ta sống đời sống phạm hạnh và ở với tăng thân. Nếu người mình thương biết vậy thì người đó sẽ không khổ mà mình cũng sẽ không khổ, bởi vì tình thương chân thật rộng lớn và thâm sâu hơn là tình yêu đôi lứa. Vì tình thương lớn, ta có thể hy sinh khía cạnh đó của tình yêu, và tình thương của ta trở nên cao cả hơn, rộng lớn hơn. Tình thương đó nuôi dưỡng ta, nuôi dưỡng người kia, nuôi dưỡng mọi người chung quanh và cuối cùng tình thương đó không còn biên giới nữa. Đó là tình thương của Bụt.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 01 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 02 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 03 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 04 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 05 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 06 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 07 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 09 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 10 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 11 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 12 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 13 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 14 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 15 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 16 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 17 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 18 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 19 tại đây.

Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, toàn tập tại đây.

nhavantuonglai

Share:
Quay lại.

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »

Đăng ký nhận bảng tin hàng tuần

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.