Trước khi bạn ở bên người khác, hãy học cách sống một mình

Chúng ta tìm kiếm bạn của bạn, người yêu cũ, những người chúng ta biết rất ít, những người chúng ta không có lý do gì để biết.

 · 9 phút đọc.

Chúng ta tìm kiếm bạn của bạn, người yêu cũ, những người chúng ta biết rất ít, những người chúng ta không có lý do gì để biết.

Chúng ta tìm kiếm bạn của bạn, người yêu cũ, những người chúng ta biết rất ít, những người chúng ta không có lý do gì để biết. Chúng ta khao khát sự đồng hành liên tục.

Mở đầu

Năm 1840, Edgar Allan Poe mô tả năng lượng điên cuồng của một người đàn ông già cả lang thang trên các con phố London từ hoàng hôn đến bình minh. Nỗi tuyệt vọng đau đớn của ông chỉ có thể tạm thời được giảm nhẹ khi ông đắm mình vào đám đông ồn ào của những cư dân thành phố. Ông ta từ chối việc ở một mình, Poe viết. Ông ta là biểu tượng và thiên tài của tội ác sâu sắc … Ông ta là người của đám đông.

Như nhiều nhà thơ và triết gia qua các thời đại, Poe nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cô độc. Ông cho rằng đó là một mất mát lớn khi mất khả năng ở một mình với chính bản thân mình, bị cuốn vào đám đông, từ bỏ sự độc đáo của bản thân để trở thành một phần của sự đồng nhất vô thức.

Hai thập kỷ sau, ý tưởng về sự cô độc đã chiếm lĩnh trí tưởng tượng của Ralph Waldo Emerson theo một cách hơi khác: trích dẫn Pythagoras, ông viết: Vào buổi sáng, – cô độc; để thiên nhiên có thể nói chuyện với trí tưởng tượng, như cách nó không bao giờ làm khi ở trong đám đông. Emerson khuyến khích các thầy dạy khôn ngoan nhất nhấn mạnh với học trò của họ tầm quan trọng của những giai đoạn và thói quen cô độc, những thói quen tạo điều kiện cho suy nghĩ nghiêm túc và trừu tượng.

Lịch sử của sự cô đơn

Vào thế kỷ 20, ý tưởng về sự cô độc trở thành trọng tâm trong tư tưởng của Hannah Arendt. Là một người Do Thái gốc Đức tị nạn thoát khỏi chế độ phát xít và tìm kiếm nơi trú ẩn tại Hoa Kỳ, Arendt dành phần lớn cuộc đời nghiên cứu mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng chính trị. Đối với bà, tự do gắn liền với cả lĩnh vực tư nhân – vita contemplativa – và lĩnh vực công cộng, chính trị – vita activa.

Bà hiểu rằng tự do không chỉ là khả năng hành động một cách sáng tạo và tự phát trong xã hội. Nó còn bao gồm cả khả năng suy nghĩ và phán xét trong không gian riêng tư, nơi sự cô độc trao quyền cho cá nhân suy ngẫm về hành động của mình và phát triển lương tâm, để thoát khỏi sự ồn ào của đám đông – để cuối cùng có thể nghe thấy suy nghĩ của chính mình.

Năm 1961, tạp chí The New Yorker giao cho Arendt nhiệm vụ viết về phiên tòa của Adolf Eichmann, một sĩ quan SS của Đức Quốc Xã đã giúp tổ chức cuộc thảm sát Holocaust. Bà muốn biết làm thế nào mà một người có thể phạm phải những tội ác tàn ác như vậy? Chắc chắn chỉ có một kẻ tâm thần ác độc mới có thể tham gia vào cuộc thảm sát người Do Thái. Nhưng Arendt đã ngạc nhiên trước sự thiếu tưởng tượng của Eichmann, sự tầm thường tuyệt đối của ông ta.

Bà lập luận rằng trong khi hành động của Eichmann là xấu xa, thì bản thân Eichmann – con người – khá bình thường, tầm thường, và không có gì quỷ quyệt hay quái đản. Không có dấu hiệu nào cho thấy ông ta có niềm tin ý thức hệ mạnh mẽ. Bà cho rằng sự vô đạo đức của ông ta – khả năng và thậm chí là sự hăng hái của ông ta trong việc phạm tội – xuất phát từ sự không suy nghĩ. Chính sự không thể dừng lại và suy nghĩ đã cho phép Eichmann tham gia vào cuộc thảm sát hàng loạt.

Cũng như Poe nghi ngờ rằng có điều gì đó đáng ngờ ẩn giấu sâu bên trong người của đám đông, Arendt nhận ra rằng: Một người không biết đến cuộc đối thoại im lặng (trong đó chúng ta xem xét những gì mình nói và làm) sẽ không quan tâm đến việc tự mâu thuẫn với chính mình, và điều này có nghĩa là người đó sẽ không bao giờ có khả năng hay mong muốn chịu trách nhiệm về những gì mình nói hay làm; người đó cũng sẽ không ngại phạm bất kỳ tội ác nào, bởi vì họ có thể tin tưởng rằng nó sẽ bị quên lãng ngay sau đó.

Eichmann đã lảng tránh sự tự suy ngẫm kiểu Socrates. Ông ta không trở về với chính mình, không đạt đến trạng thái cô độc. Ông ta đã vứt bỏ vita contemplativa, và vì thế đã thất bại trong việc bắt đầu quá trình đặt câu hỏi và trả lời cần thiết để có thể xem xét ý nghĩa của mọi thứ, để phân biệt giữa sự thật và dối trá, giữa tốt và xấu.

Sẽ tốt hơn nếu chịu đựng sự bất công còn hơn làm điều bất công, Arendt viết, bởi vì bạn vẫn có thể là bạn của người chịu đựng; ai muốn là bạn và phải sống cùng với một kẻ giết người? Thậm chí không phải là một kẻ giết người khác. Vấn đề không phải là những người không suy nghĩ là quái vật, rằng những kẻ ngủ mơ buồn bã trên thế giới này sẽ nhanh chóng phạm tội giết người hơn là đối mặt với bản thân trong cô độc. Điều mà Eichmann đã cho Arendt thấy là xã hội chỉ có thể hoạt động tự do và dân chủ nếu nó được tạo nên từ những cá nhân tham gia vào hoạt động tư duy – một hoạt động đòi hỏi sự cô độc. Arendt tin rằng sống cùng với người khác bắt đầu bằng việc sống cùng với chính mình.

Cô đơn trong sự cô độc của mình

Nhưng nếu, chúng ta có thể hỏi, chúng ta trở nên cô đơn trong sự cô độc của mình thì sao? Chẳng phải có nguy cơ chúng ta sẽ trở thành những cá nhân bị cô lập, cắt đứt khỏi những niềm vui của tình bạn? Các triết gia từ lâu đã tạo ra sự phân biệt cẩn trọng và quan trọng giữa cô độc và cô đơn. Trong tác phẩm Cộng Hòa (khoảng năm 380 TCN), Plato đưa ra một ngụ ngôn trong đó Socrates tôn vinh triết gia cô độc. Trong ngụ ngôn về hang động, triết gia thoát khỏi bóng tối của một hang động ngầm – và khỏi sự bầu bạn của những con người khác – để bước vào ánh sáng của tư duy suy tưởng. Một mình nhưng không cô đơn, triết gia trở nên đồng điệu với cái tôi bên trong và thế giới. Trong sự cô độc, cuộc đối thoại không lời mà linh hồn có với chính mình cuối cùng cũng trở nên rõ ràng.

Phản ánh lại Plato, Arendt quan sát: Suy nghĩ, theo nghĩa hiện sinh, là một công việc cô độc nhưng không cô đơn; cô độc là tình huống con người trong đó tôi giữ mình làm bạn đồng hành. Cô đơn xuất hiện … khi tôi là một nhưng không có sự đồng hành nhưng lại khao khát điều đó và không thể tìm thấy nó. Trong sự cô độc, Arendt không bao giờ khao khát tình bạn hay mong muốn có bạn bè bởi vì bà không bao giờ thực sự một mình. Cái tôi bên trong của bà là một người bạn mà bà có thể trò chuyện, một giọng nói im lặng đặt ra câu hỏi quan trọng kiểu Socrates: Ý của bạn là gì khi nói …? Cái tôi, Arendt tuyên bố, là người duy nhất mà bạn không bao giờ có thể thoát khỏi – trừ khi bạn ngừng suy nghĩ.

Lời cảnh báo của Arendt rất đáng được ghi nhớ trong thời đại của chúng ta. Trong thế giới siêu kết nối ngày nay, một thế giới nơi chúng ta có thể giao tiếp liên tục và tức thì qua internet, chúng ta hiếm khi nhớ rằng cần tạo ra những khoảng trống cho sự suy ngẫm đơn độc. Chúng ta kiểm tra email hàng trăm lần mỗi ngày; chúng ta gửi hàng ngàn tin nhắn văn bản mỗi tháng; chúng ta ám ảnh lướt qua Twitter, Facebook và Instagram, khao khát kết nối mọi lúc với những người quen thân và quen xã giao. Chúng ta tìm kiếm bạn của bạn, người yêu cũ, những người chúng ta biết rất ít, những người chúng ta không có lý do gì để biết. Chúng ta khao khát sự đồng hành liên tục.

Đánh mất khả năng cô độc

Nhưng, Arendt nhắc nhở chúng ta, nếu chúng ta đánh mất khả năng cô độc, khả năng ở một mình với chính mình, thì chúng ta sẽ mất khả năng suy nghĩ. Chúng ta có nguy cơ bị cuốn vào đám đông. Chúng ta có nguy cơ bị cuốn trôi, như bà đã nói, bởi những gì mọi người khác làm và tin tưởng – không còn khả năng, trong chiếc lồng của sự đồng nhất không suy nghĩ, để phân biệt đúng và sai, đẹp và xấu.

Cô độc không chỉ là một trạng thái tinh thần cần thiết cho sự phát triển của ý thức cá nhân – và lương tâm – mà còn là một thực hành chuẩn bị cho một người tham gia vào cuộc sống xã hội và chính trị. Trước khi chúng ta có thể ở cùng người khác, chúng ta phải học cách ở cùng chính mình.

nhavantuonglai

Share:
Quay lại.

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »

Đăng ký nhận bảng tin hàng tuần

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.