Làng quê vắng bóng người trẻ – Khi hành trình mưu sinh dẫn đến sự rạn nứt văn hóa | nhavantuonglai
Khi người trẻ rời làng ra đi để tìm kiếm cơ hội sống tốt hơn ở những thành phố lớn, họ không chỉ mang theo ước mơ và hoài bão mà còn vô tình tạo ra những khoảng trống văn hóa khó lấp đầy.

Làng quê vắng bóng người trẻ – Khi hành trình mưu sinh dẫn đến sự rạn nứt văn hóa

Khi người trẻ rời làng ra đi để tìm kiếm cơ hội sống tốt hơn ở những thành phố lớn, họ không chỉ mang theo ước mơ và hoài bão mà còn vô tình tạo ra những khoảng trống văn hóa khó lấp đầy.

74 phút đọc  · lượt xem.

Những năm gần đây, làng quê Việt Nam đang phải đối mặt với một thực tế đau lòng: sự vắng bóng ngày càng phổ biến của thế hệ trẻ. Hình ảnh những ngôi nhà khóa cửa im lìm, những cánh đồng chỉ còn bóng dáng người già cần mẫn đã trở nên quá đỗi quen thuộc. Làng quê không chỉ thiếu vắng sức lao động trẻ mà còn đang chứng kiến một cuộc khủng hoảng sâu sắc hơn – sự đứt gãy về văn hóa và tinh thần.

Cuộc dịch chuyển không thể đảo ngược

Khi người trẻ rời làng ra đi để tìm kiếm cơ hội sống tốt hơn ở những thành phố lớn, họ không chỉ mang theo ước mơ và hoài bão mà còn vô tình tạo ra những khoảng trống văn hóa khó lấp đầy. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế hay xã hội đơn thuần, mà còn là câu chuyện về sự tồn vong của những giá trị văn hóa truyền thống đã nuôi dưỡng tâm hồn người Việt qua bao thế hệ.

Vì sao người trẻ rời quê?

Tại những miền quê trải dài từ Bắc chí Nam, câu chuyện di cư của người trẻ đã trở thành một thực tế hiển nhiên, gần như tất yếu trong dòng chảy phát triển hiện đại. Nguyễn Văn Minh, 27 tuổi, quê ở một làng nhỏ thuộc tỉnh Nam Định, đã rời quê nhà từ năm 18 tuổi để theo học đại học tại Hà Nội và sau đó ở lại thành phố làm việc: Ở quê, ngoài việc làm ruộng thì chẳng còn gì khác để làm. Mỗi vụ mùa, thuê cả công người làm thì cũng chỉ thu về được khoảng 15 – 20 triệu đồng. Trong khi ở thành phố, chỉ với công việc nhân viên văn phòng bình thường, tôi đã có thể kiếm được khoảng 10 – 15 triệu mỗi tháng. Lời tâm sự của Minh phản ánh một thực tế đắng cay rằng khoảng cách về thu nhập giữa nông thôn và thành thị là quá lớn để người trẻ có thể chọn ở lại.

Không chỉ đơn thuần là vấn đề thu nhập, còn là sự chênh lệch về cơ hội phát triển bản thân. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Phát triển Nông thôn cho thấy, tại các vùng nông thôn Việt Nam, gần 78% người trẻ trong độ tuổi 18 – 35 có nguyện vọng rời quê ra thành phố làm việc. Họ khao khát được tiếp cận với nền giáo dục tốt hơn, cơ hội nghề nghiệp đa dạng hơn và môi trường sống hiện đại hơn. Trần Thị Hương, một cô gái trẻ 25 tuổi từ Nghệ An, chia sẻ: Ở quê tôi, nếu không làm nông nghiệp thì chỉ có thể làm công nhân tại vài công ty may nhỏ với mức lương chỉ khoảng 4 – 5 triệu đồng mỗi tháng. Không có triển vọng thăng tiến, không có cơ hội học hỏi thêm kỹ năng mới. Mỗi ngày trôi qua đều giống hệt nhau, không có gì thay đổi. Sự đơn điệu, thiếu động lực trong môi trường sống làng quê đã đẩy người trẻ vào quyết định phải ra đi.

nhavantuonglai

Một yếu tố quan trọng khác thúc đẩy làn sóng di cư của người trẻ là áp lực từ kỳ vọng xã hội và gia đình. Tại nhiều vùng nông thôn, thành công của một người trẻ thường được đánh giá qua khả năng rời khỏi làng quê để tìm kiếm cơ hội tốt hơn ở thành phố. Tôi còn nhớ ngày tôi đỗ đại học ở Sài Gòn, cả làng đến chúc mừng gia đình tôi. Họ nói tôi đã thoát được cuộc sống nhà nông vất vả. Ngay từ khi còn nhỏ, bố mẹ tôi đã luôn dạy rằng phải học thật giỏi để không phải làm ruộng như họ, Phạm Văn Tuấn, 30 tuổi, hiện đang làm kỹ sư phần mềm tại Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ. Nghịch lý của tình huống này là chính những bậc cha mẹ, những người gắn bó sâu sắc với quê hương, lại là những người khuyến khích con cái họ rời xa mảnh đất này. Họ sẵn sàng tằn tiện, dành dụm để con cái có thể theo đuổi giấc mơ thành thị, vô tình tạo ra khoảng cách ngày càng lớn giữa thế hệ trẻ với quê hương và những giá trị văn hóa truyền thống.

Lời hứa trở về và thực tế vĩnh viễn ra đi

Con đi rồi sẽ về, mẹ ơi đừng khóc nữa – lời hứa ngọt ngào này vang lên trong vô vàn cuộc chia tay giữa con cái và cha mẹ già ở những làng quê Việt Nam. Tuy nhiên, hiện thực phũ phàng cho thấy đó thường chỉ là những lời hứa không thể thực hiện đầy đủ. Ban đầu, người trẻ rời quê với kế hoạch rõ ràng: đi học, kiếm việc làm tốt, tích lũy kinh nghiệm và vốn liếng, rồi một ngày nào đó sẽ trở về góp sức xây dựng quê hương. Nhưng rồi dòng đời cuốn trôi họ vào guồng quay hối hả của cuộc sống đô thị. Lê Thị Thanh Mai, một nhà xã hội học nghiên cứu về di cư nông thôn – thành thị, nhận định: Trong khảo sát của chúng tôi với 500 người trẻ đã rời quê ra thành phố làm việc và sinh sống hơn 5 năm, có đến 82% người trả lời rằng họ không còn dự định trở về quê để sinh sống và làm việc lâu dài. Chỉ có khoảng 15% nghĩ đến việc về quê khi về già, và chỉ 3% có kế hoạch cụ thể để trở về trong vòng 5 năm tới.

Thực tế cho thấy, càng ở lâu tại thành phố, người trẻ càng bị cuốn vào lối sống và nhịp điệu đô thị. Họ lập gia đình, con cái họ sinh ra và lớn lên tại thành phố, tạo dựng sự nghiệp, mua nhà, và dần dần xây dựng toàn bộ cuộc sống của mình tại nơi đây. Nguyễn Văn Thành, 35 tuổi, đã rời quê hương Thái Bình từ 17 năm trước, giờ đã thành đạt với công việc quản lý tại một công ty công nghệ lớn ở Hà Nội, tâm sự: Mỗi lần Tết đến xuân về, tôi lại hứa với bố mẹ sẽ về quê thường xuyên hơn, sẽ cố gắng đưa họ lên thành phố sống cùng. Nhưng rồi công việc bận rộn, con cái học hành, những bữa cơm tối muộn màng sau ngày làm việc mệt nhọc… tất cả dường như không để lại không gian nào cho những lời hứa ấy. Tôi biết mình đang dần xa rời quê hương, nhưng không biết làm thế nào để thay đổi.

Hậu quả của quá trình này không chỉ là sự vắng bóng của người trẻ tại quê nhà, mà còn là một hiện thực đau lòng: nhiều làng quê đang dần trở thành làng ông bà. Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tại một số tỉnh miền Trung như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, có những xã mà tỷ lệ người già và trẻ em chiếm đến 70% dân số, trong khi người trong độ tuổi lao động chỉ còn khoảng 30%. Làng tôi giờ chỉ còn người già và trẻ con. Thanh niên trai tráng, ai cũng đi hết. Sáng sớm ra đồng, chỉ thấy những lưng còng của các cụ già. Đến các buổi họp thôn, ghế ngồi cứ vơi dần theo năm tháng, ông Trần Văn Hiếu, trưởng thôn tại một làng quê ở Thanh Hóa, kể lại với giọng buồn bã. Làng quê không chỉ thiếu vắng sức lao động trẻ mà còn đang dần mất đi những người kế thừa và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống, những người có thể tiếp nối và làm giàu thêm cho kho tàng văn hóa bản địa đã được hun đúc qua nhiều thế hệ.

Phong trào quay về quê hương – Hiện tượng nhất thời hay xu hướng lâu dài?

Trong vài năm gần đây, đặc biệt là sau đại dịch COVID – 19, một hiện tượng thú vị đã nổi lên: phong trào hồi hương của một bộ phận người trẻ. Họ là những người đã có một khoảng thời gian làm việc và sinh sống tại thành phố, nay chọn quay về quê nhà để xây dựng sự nghiệp và cuộc sống mới. Đỗ Minh Quân, 32 tuổi, sau 10 năm làm việc trong ngành công nghệ thông tin tại Hà Nội, đã quyết định trở về quê nhà ở Bắc Giang để khởi nghiệp với mô hình nông nghiệp công nghệ cao: Trước đây, tôi nghĩ quê hương chỉ là nơi để nhớ về, không phải nơi để sống và phát triển. Nhưng sau khi có kinh nghiệm và vốn, tôi nhận ra rằng quê hương có những tiềm năng chưa được khai thác. Với công nghệ và cách làm mới, nông nghiệp không còn là nghề vất vả, lợi nhuận thấp như trước đây nữa.

nhavantuonglai

Tuy nhiên, những trường hợp như Quân vẫn còn khá hiếm hoi và thường gặp nhiều thách thức. Theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Bền vững (CSDS), trong số những người trẻ quay về quê khởi nghiệp, chỉ có khoảng 35% thành công và duy trì được hoạt động sau 3 năm. Nguyên nhân chủ yếu đến từ những rào cản về cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ hạn chế, thiếu vốn đầu tư và đặc biệt là sự thiếu kết nối với cộng đồng địa phương. Tôi trở về với nhiều ý tưởng và nhiệt huyết, nhưng nhận ra rằng mình đã trở thành người xa lạ tại chính quê hương. Tư duy, cách làm việc, thậm chí cách nói chuyện của tôi đều khác biệt so với người dân địa phương. Có những lúc, tôi cảm thấy mình không thực sự thuộc về nơi này nữa, Nguyễn Thị Hồng, 28 tuổi, chia sẻ sau 2 năm trở về quê tại Quảng Nam để phát triển du lịch cộng đồng nhưng đã phải từ bỏ dự án và quay lại Thành phố Hồ Chí Minh.

Phong trào hồi hương này cũng phơi bày một thực tế phức tạp: về mặt vật lý, người trẻ có thể quay trở về quê hương, nhưng về mặt tinh thần và văn hóa, họ đã trở thành những người lạ tại chính quê nhà. Đối với nhiều người, đây không đơn thuần là sự trở về mà là một hành trình tái định cư, tái hòa nhập vào một môi trường mà họ từng quen thuộc nhưng giờ đây lại trở nên xa lạ. Tiến sĩ Phạm Thị Lan, chuyên gia về xã hội học nông thôn, nhận định: Khoảng cách văn hóa giữa người trẻ đã rời quê lâu năm và cộng đồng địa phương không chỉ là vấn đề của cá nhân mà còn là thách thức của cả xã hội. Làm thế nào để những người trở về có thể thực sự tái hòa nhập, đồng thời mang theo những giá trị tích cực từ môi trường đô thị để góp phần phát triển quê hương, là câu hỏi cần được giải đáp. Dù vậy, những phong trào hồi hương, dù còn nhỏ lẻ và gặp nhiều thách thức, cũng là tín hiệu đáng mừng cho thấy sự quan tâm của người trẻ đối với quê hương không hoàn toàn mất đi, và có thể được khơi dậy nếu có những điều kiện và môi trường phù hợp.

Phía sau vali lên đường – Những khoảng trống tâm lý chưa từng được gọi tên

Khi bàn về hiện tượng di cư của người trẻ, chúng ta thường tập trung vào những khía cạnh kinh tế xã hội hiển nhiên: sự chênh lệch thu nhập, cơ hội việc làm hạn hẹp, điều kiện sống thiếu thốn ở nông thôn. Tuy nhiên, ẩn sâu bên dưới những vali hành lý và những chuyến xe đêm rời làng là cả một thế giới nội tâm phức tạp của người ra đi và người ở lại. Đó là những xung đột tâm lý, những khủng hoảng bản sắc, những nỗi cô đơn âm ỉ và những khoảng trống tình cảm không thể lấp đầy. Hành trình mưu sinh của người trẻ không chỉ là việc di chuyển địa lý mà còn là một cuộc di cư tâm hồn đầy khó khăn, khi họ phải liên tục cân bằng giữa khát khao thành công và nỗi nhớ quê hương, giữa khao khát hòa nhập và nỗi sợ đánh mất bản sắc.

Người ra đi – Tâm lý mông lung và bản sắc lỏng lẻo của người trẻ nơi đất khách

Cuộc sống nơi đô thị hối hả mở ra trước mắt người trẻ từ nông thôn muôn vàn cơ hội mới nhưng cũng kèm theo đó là những thách thức tâm lý không nhỏ. Những năm đầu tiên rời xa quê hương thường là khoảng thời gian khó khăn nhất khi họ phải vật lộn với cảm giác lạc lõng, cô đơn giữa chốn đông người. Nghiên cứu của Tiến sĩ Trần Minh Hà, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, cho thấy hơn 65% người trẻ di cư từ nông thôn ra thành thị trải qua các vấn đề tâm lý như lo âu, trầm cảm, rối loạn giấc ngủ trong năm đầu tiên sống xa nhà. Tôi nhớ những đêm đầu tiên ở Hà Nội, nằm trong căn phòng trọ chật hẹp, nghe tiếng còi xe inh ỏi bên ngoài, tôi thường khóc thầm vì nhớ nhà. Nhưng không dám gọi điện về vì sợ bố mẹ lo lắng. Nhiều lúc tự hỏi liệu quyết định ra đi có đúng đắn không, Nguyễn Thị Hoa, 26 tuổi, sinh viên quê Hà Nam chia sẻ về những ngày đầu lên thành phố học tập.

Không chỉ là nỗi nhớ nhà, người trẻ di cư còn phải đối mặt với cuộc khủng hoảng bản sắc sâu sắc. Họ thường xuyên cảm thấy mình không thực sự thuộc về nơi đang sống, nhưng cũng không còn hoàn toàn gắn bó với quê hương. Trạng thái lưng chừng này tạo ra một cảm giác bất an triền miên. Phạm Văn Tú, 28 tuổi, đã sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh được 8 năm, tâm sự: Ở Sài Gòn, mọi người vẫn gọi tôi là anh Bắc, dù tôi đã cố gắng hòa nhập hết mức có thể. Khi về quê ở Thanh Hóa, hàng xóm lại trêu tôi là Sài Gòn quá vì cách nói chuyện, cách ăn mặc đã thay đổi. Có những lúc tôi tự hỏi, vậy thực sự mình là ai? Thuộc về đâu? Cảm giác bị kẹt giữa hai thế giới này không chỉ là vấn đề cá nhân mà còn phản ánh một thực trạng xã hội rộng lớn hơn: sự phân mảnh của bản sắc văn hóa trong thời đại di cư ồ ạt.

Áp lực hội nhập với môi trường văn hóa mới cũng thường khiến người trẻ phải thay đổi nhiều khía cạnh trong cách sống, từ giọng nói, cách ăn mặc, đến những thói quen sinh hoạt. Nhiều người chọn cách từ bỏ hoàn toàn những dấu hiệu cho thấy họ xuất thân từ nông thôn, vì lo sợ bị kỳ thị hoặc xem thường. Năm đầu đại học, tôi cố gắng sửa giọng nói đặc sệt miền Trung của mình, học cách ăn mặc như sinh viên thành phố, thậm chí nói dối rằng mình sinh ra ở thành phố nhưng chỉ về quê sống với ông bà. Tôi xấu hổ về xuất thân của mình và cảm thấy mình phải thay đổi để được chấp nhận, Lê Thị Mỹ Linh, 24 tuổi, chia sẻ với sự day dứt. Những nỗ lực ngụy trang này, dù giúp họ hòa nhập nhanh hơn với môi trường mới, lại vô tình làm sâu sắc thêm cuộc khủng hoảng bản sắc và tạo ra một khoảng cách ngày càng lớn giữa họ với nguồn cội của mình.

nhavantuonglai

Chính sự mất kết nối này đã dẫn đến hệ quả là nhiều người trẻ phát triển một dạng bản sắc lỏng lẻo – không thực sự gắn kết sâu sắc với bất kỳ không gian văn hóa nào. Họ sống trong trạng thái lưng chừng, không thực sự là người thành thị nhưng cũng không còn là người nông thôn thuần túy. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến cảm giác thuộc về của cá nhân mà còn làm suy yếu sự gắn kết cộng đồng và văn hóa bản địa. Tiến sĩ Đặng Hoài Nam, chuyên gia tâm lý xã hội, nhận định: Khi người trẻ không còn cảm thấy mình là một phần của quê hương, họ cũng mất đi động lực để gìn giữ và phát triển những giá trị văn hóa bản địa. Điều này dẫn đến nguy cơ mai một văn hóa truyền thống không phải do thiếu người thực hành, mà do thiếu sự kết nối cảm xúc và ý thức về tầm quan trọng của những giá trị đó.

Người ở lại – Cha mẹ già và nỗi cô đơn âm ỉ

Mỗi mùa xuân về, những chuyến xe khách lại chật kín người trẻ trở về quê ăn Tết. Nhưng sau những ngày sum vầy ngắn ngủi, họ lại ra đi, để lại phía sau là những người cha, người mẹ già cô đơn với những ngôi nhà trống vắng. Cảnh tượng người già đứng lặng lẽ ở cổng làng nhìn theo bóng con khuất dần đã trở thành hình ảnh quá đỗi quen thuộc ở nhiều làng quê Việt Nam. Nỗi cô đơn của những người ở lại không chỉ đến từ sự vắng mặt vật lý của con cái mà còn từ cảm giác bị bỏ lại phía sau trong dòng chảy phát triển. Từ ngày các con đi học, đi làm ở thành phố, nhà tôi chỉ còn hai vợ chồng già. Buổi tối, cả xóm im ắng, chỉ còn tiếng chó sủa và tiếng côn trùng. Có những lúc tôi nhớ con quá, đi quanh vườn gọi tên chúng như một thói quen, dù biết rằng chẳng ai trả lời, bà Nguyễn Thị Lan, 67 tuổi, ở một xã thuộc tỉnh Thanh Hóa tâm sự với giọng nghẹn ngào.

Không chỉ là nỗi nhớ con, người già ở làng quê còn phải đối mặt với nhiều thách thức thực tế khác. Khi tuổi già ập đến cùng với sức khỏe suy yếu, vấn đề chăm sóc và hỗ trợ trở nên cấp bách. Nhiều người cao tuổi ở nông thôn phải tự lo liệu mọi việc, từ công việc đồng áng vất vả, việc nhà đến việc tự chăm sóc sức khỏe của mình. Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Người cao tuổi, có đến 65% người già ở nông thôn phải tiếp tục lao động nặng nhọc để tự nuôi sống bản thân dù đã ngoài 70 tuổi. Năm ngoái tôi bị ngã gãy tay khi đi làm đồng một mình. Phải nằm đó kêu cứu mãi mới có người đi qua giúp đỡ đưa đi bệnh viện. Con cái ở xa, biết tin thì cũng chỉ gọi điện hỏi thăm, có đứa gửi tiền về, nhưng tiền không thay thế được sự chăm sóc trực tiếp, ông Trần Văn Hùng, 75 tuổi, ở một xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh kể lại.

Sự xa cách không chỉ về mặt địa lý mà còn là khoảng cách về tâm lý và giá trị giữa các thế hệ ngày càng trở nên rõ rệt. Con cái sống ở thành phố dần thích nghi với nhịp sống hiện đại, với những giá trị và lối sống mới, trong khi cha mẹ ở quê vẫn gắn bó với những phong tục, tập quán truyền thống. Điều này tạo ra những xung đột và hiểu lầm khi họ gặp nhau. Con trai tôi mỗi lần về thăm lại phàn nàn nhà cửa quê mùa, không tiện nghi. Nó muốn xây nhà mới theo kiểu thành phố, phá hết vườn cây ăn trái tôi trồng bao năm để làm sân. Nó không hiểu rằng với tôi, những cây ăn trái ấy không chỉ là nguồn thực phẩm mà còn là kỷ niệm, là phần đời của tôi, bà Phạm Thị Hồng, 70 tuổi, chia sẻ về những bất đồng với con trai mỗi khi nó về thăm nhà.

Công nghệ hiện đại tưởng chừng như có thể thu ngắn khoảng cách địa lý thông qua các cuộc gọi video, tin nhắn, nhưng thực tế lại tạo ra một nghịch lý đau lòng. Nhiều người già ở nông thôn không thạo sử dụng những thiết bị điện tử phức tạp, trong khi con cháu lại quá bận rộn với cuộc sống đô thị để có thể kiên nhẫn hướng dẫn. Các con tôi mua cho chiếc điện thoại thông minh để tiện liên lạc, nhưng tôi chẳng biết dùng. Màn hình nhỏ, chữ chỉ bằng hạt gạo, tay tôi run run bấm hoài không trúng. Mỗi lần con gọi video, tôi chỉ thấy mỗi trán con vì không biết cầm máy thế nào cho đúng, bà Lê Thị Minh, 72 tuổi ở Bắc Ninh, chia sẻ với nụ cười buồn. Khoảng cách số dường như càng làm trầm trọng thêm khoảng cách thế hệ, khiến người già càng cảm thấy bị bỏ lại phía sau trong thời đại công nghệ.

Trong những năm gần đây, một hiện tượng xã hội đáng lo ngại đã xuất hiện tại nhiều làng quê: số lượng người cao tuổi mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần như trầm cảm, lo âu, thậm chí tự tử đang gia tăng đáng kể. Theo số liệu từ Hội Người cao tuổi Việt Nam, tỷ lệ trầm cảm ở người già tại nông thôn cao gấp 1,5 lần so với người già ở thành thị, và yếu tố nguy cơ hàng đầu chính là cảm giác cô đơn, bị bỏ rơi khi con cái đi xa. Tối nào tôi cũng nằm một mình nghe tiếng gió thổi qua mái ngói, nghĩ đến cảnh về già không ai bên cạnh mà thấy sợ. Hàng xóm bên cạnh, bà ấy sống một mình, con cái đi làm ăn xa hết, năm ngoái bà ấy ngã bệnh, nằm một mình ba ngày không ai biết, khi phát hiện ra thì đã quá muộn, ông Nguyễn Văn Cả, 78 tuổi ở Quảng Nam, kể lại với ánh mắt lo lắng.

Những nỗ lực của chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội trong việc hỗ trợ người già ở nông thôn, dù đáng ghi nhận, vẫn chưa đủ để lấp đầy khoảng trống tình cảm mà sự vắng mặt của con cái để lại. Các chương trình như Câu lạc bộ người cao tuổi, Ngày hội ông bà cháu, hay mô hình Chăm sóc người già cô đơn đã được triển khai tại nhiều địa phương, nhưng hiệu quả còn hạn chế do thiếu nguồn lực và chưa nhận được sự hưởng ứng rộng rãi. Tiến sĩ Nguyễn Thị Hòa, chuyên gia về công tác xã hội với người cao tuổi, nhận định: Chúng ta cần một chiến lược tổng thể hơn, không chỉ giải quyết vấn đề vật chất mà còn cần quan tâm đến khía cạnh tinh thần, tâm lý của người già nông thôn trong bối cảnh di cư. Đây không chỉ là trách nhiệm của gia đình mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội.

Quê hương chỉ còn là một miền ký ức xa xăm

Với mỗi năm trôi qua tại thành phố, hình ảnh quê hương trong tâm trí người trẻ dần trở nên mờ nhạt, biến thành một miền ký ức xa xăm thay vì một thực tế sống động. Đối với những người đã rời quê từ tuổi thanh niên và đã gắn bó với cuộc sống thành thị nhiều năm, quê hương dần trở thành một khái niệm trừu tượng, một nơi chỉ còn tồn tại trong ký ức và những bức ảnh cũ. Đã năm năm tôi không về quê, chỉ gửi tiền về cho cha mẹ. Mỗi lần nhắc đến quê, tôi chỉ nhớ mang máng con đường đất đỏ dẫn vào làng, giếng nước đầu thôn, và tiếng gà gáy sáng. Nhưng khi cố nhớ rõ hơn, mọi thứ trở nên mơ hồ. Tôi không còn nhớ rõ khuôn mặt của chú Tám hàng xóm, không còn nhớ mùi thơm của cây nhãn sau vườn, Trần Văn Lương, 35 tuổi, hiện là kỹ sư xây dựng tại Hà Nội, tâm sự về mối liên hệ ngày càng phai nhạt với quê nhà ở Nam Định.

Sự phai nhạt của ký ức về quê hương không chỉ liên quan đến không gian vật lý mà còn là sự mất dần kiến thức về văn hóa, phong tục, lối sống bản địa. Nhiều người trẻ không còn nhớ rõ những nghi lễ truyền thống, những câu ca dao, tục ngữ mà ông bà từng truyền dạy, hay thậm chí cách thức thực hiện những công việc đồng áng cơ bản. Con gái tôi về quê dịp Tết, không biết cách thắp hương bàn thờ gia tiên. Nó cầm nén hương lúng túng, không biết khấn vái thế nào, cuối cùng chỉ đứng im lặng cầm hương với vẻ mặt ngượng nghịu. Tôi thấy xót xa khi nhận ra con mình đã mất đi những kiến thức cơ bản về phong tục mà bất kỳ đứa trẻ nào lớn lên ở quê cũng biết, bà Nguyễn Thị Hạnh, 65 tuổi, kể về lần về thăm quê của cô con gái đã sống ở thành phố gần 20 năm.

nhavantuonglai

Đặc biệt với thế hệ con cái của những người đã di cư – những đứa trẻ sinh ra và lớn lên tại thành phố – quê hương chỉ còn là một khái niệm trừu tượng, một nơi xa lạ mà chúng thỉnh thoảng ghé thăm trong những dịp lễ Tết. Chúng không có cơ hội trải nghiệm những sinh hoạt văn hóa đặc trưng, không được nuôi dưỡng trong môi trường văn hóa bản địa, và do đó, không thể phát triển mối liên hệ tình cảm sâu sắc với quê hương của cha mẹ. Con trai út của tôi, sinh ra ở Sài Gòn, nói tiếng địa phương không sõi, về quê chỉ biết chơi điện thoại, không hòa nhập được với bạn bè cùng trang lứa ở quê. Có lần nó hỏi tôi tại sao phải về quê khi ở thành phố tiện nghi hơn nhiều. Nghe mà đau lòng, nhưng tôi cũng không biết phải trách ai, anh Phạm Văn Thịnh, 42 tuổi, người gốc Thanh Hóa nhưng đã định cư tại Thành phố Hồ Chí Minh 20 năm, tâm sự.

Nhiều nghiên cứu xã hội học đã chỉ ra rằng, khi liên hệ với quê hương chỉ còn là ký ức xa xăm, người trẻ mất đi một phần quan trọng trong bản sắc văn hóa của mình. Họ không còn cảm thấy mình là một phần của cộng đồng quê hương, không còn trách nhiệm gìn giữ và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống. Khi không còn nhớ, không còn hiểu và không còn cảm thấy mình thuộc về, người ta cũng không còn động lực để gìn giữ. Đây chính là lý do vì sao nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang dần biến mất – không phải vì không ai còn thực hành, mà vì thế hệ kế thừa không còn cảm thấy những giá trị đó là một phần của họ, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Quý, chuyên gia về xã hội học văn hóa, nhận định. Điều này tạo ra một vòng xoáy tiêu cực: quê hương trở nên xa lạ nên người trẻ ít về; càng ít về, quê hương càng trở nên xa lạ hơn, cho đến khi mối liên hệ chỉ còn là những lời chào hỏi ngắn ngủi qua điện thoại và những phong bì tiền gửi về mỗi dịp lễ Tết.

Người ở giữa hai thế giới – Căng thẳng văn hóa kép

Đối với nhiều người trẻ di cư, họ thường xuyên cảm thấy mình đang tồn tại giữa hai thế giới văn hóa khác biệt: một bên là môi trường đô thị hiện đại với giá trị, chuẩn mực và lối sống đặc trưng; bên kia là văn hóa truyền thống của quê hương với những phong tục, tập quán và kỳ vọng riêng. Sự chênh lệch này tạo ra một loại căng thẳng văn hóa kép (cultural double bind), khi họ liên tục phải thích nghi và chuyển đổi giữa hai bộ quy tắc văn hóa khác nhau. Khi ở thành phố, tôi là một người hiện đại, độc lập, tự do trong suy nghĩ và hành động. Nhưng mỗi khi về quê, tôi lại phải chuyển số để trở thành cô con gái ngoan ngoãn, biết vâng lời, tuân thủ mọi phong tục tập quán. Sự chuyển đổi này đôi khi khiến tôi cảm thấy như đang đóng một vai diễn, không thực sự là chính mình ở bất kỳ nơi nào, Nguyễn Thị Mai Anh, 29 tuổi, hiện là nhân viên ngân hàng tại Hà Nội, chia sẻ về trải nghiệm của mình.

Căng thẳng văn hóa kép này biểu hiện rõ rệt nhất trong những tình huống liên quan đến các mối quan hệ gia đình và xã hội. Tại thành phố, người trẻ quen với lối sống cá nhân hóa cao, đề cao tự do cá nhân và không gian riêng tư. Ngược lại, tại nông thôn, cuộc sống vẫn gắn liền với cộng đồng, đề cao sự gắn kết gia đình và làng xóm. Mỗi lần về quê, tôi lại phải giải thích với gia đình và họ hàng về việc tại sao ở tuổi 30 tôi vẫn chưa lập gia đình, tại sao tôi chọn công việc bận rộn thay vì một công việc nhàn hạ có thời gian chăm sóc gia đình. Những câu hỏi và áp lực đó khiến tôi dần ngại về quê, vì mỗi lần về là một lần phải đối mặt với những kỳ vọng mà tôi không đáp ứng được, Trần Văn Tuấn, 31 tuổi, một kỹ sư IT tại Thành phố Hồ Chí Minh, chia sẻ.

Tình trạng này còn trầm trọng hơn đối với những người đã kết hôn với người từ vùng miền khác hoặc có vợ/chồng là người thành phố gốc. Khi về quê, họ không chỉ phải tự mình thích nghi mà còn phải làm cầu nối văn hóa cho người bạn đời. Vợ tôi là người Hà Nội gốc, mỗi lần về quê tôi ở Nam Định, cô ấy gặp rất nhiều khó khăn trong việc hòa nhập. Từ cách nói chuyện, cách ăn uống, đến cách xưng hô với họ hàng làng xóm, mọi thứ đều khác biệt so với những gì cô ấy quen thuộc. Tôi luôn cảm thấy căng thẳng, vừa phải giải thích văn hóa quê nhà cho vợ, vừa phải xin lỗi gia đình khi vợ vô tình phạm phải những điều cấm kỵ trong văn hóa địa phương, anh Nguyễn Quang Huy, 33 tuổi, chia sẻ về những khó khăn khi đưa vợ là người thành thị về quê.

nhavantuonglai

Mặt khác, căng thẳng văn hóa kép này cũng tạo ra những cơ hội độc đáo cho người trẻ di cư trong việc đóng vai trò cầu nối văn hóa. Một số người đã biến thách thức này thành lợi thế khi họ có thể dễ dàng di chuyển và thích nghi giữa hai môi trường văn hóa khác biệt. Tôi thấy mình may mắn khi được trải nghiệm cả hai thế giới. Ở thành phố, tôi học được tinh thần cầu tiến, sự chuyên nghiệp và tầm nhìn rộng mở. Từ quê hương, tôi được thừa hưởng sự chân thành, tình cảm gắn bó và những giá trị đạo đức truyền thống. Tôi cố gắng kết hợp những điều tốt đẹp nhất từ cả hai nơi để làm phong phú thêm cuộc sống của mình, Lê Thị Hồng Nhung, 34 tuổi, một giáo viên đã rời quê 15 năm, chia sẻ về cách cô nhìn nhận tích cực về tình trạng sống giữa hai thế giới của mình. Tuy vậy, những người có khả năng cân bằng tốt như Nhung vẫn còn là thiểu số, trong khi đa số người trẻ di cư vẫn đang phải vật lộn với căng thẳng văn hóa kép mà không tìm được tiếng nói riêng của mình.

Khi sự lạnh nhạt thay thế lòng gắn bó quê hương

Một trong những hệ quả tâm lý sâu sắc nhất của hiện tượng di cư lao động là sự thay đổi dần dần trong cảm xúc của người trẻ đối với quê hương. Nếu ban đầu, sự xa cách thường đi kèm với nỗi nhớ nhà da diết, thì theo thời gian, nhiều người dần phát triển một thái độ lạnh nhạt, thậm chí xa lánh đối với chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Những năm đầu tiên lên Hà Nội học tập, tối nào tôi cũng nhớ nhà đến phát khóc. Nhưng giờ, sau 12 năm sống và làm việc ở thủ đô, tôi chỉ về quê mỗi năm một lần vào dịp Tết, và thường chỉ ở lại 3 – 4 ngày là đã thấy ngột ngạt, muốn quay lại thành phố. Đôi khi tôi tự hỏi liệu mình đã trở nên vô cảm với quê hương hay chưa, Nguyễn Văn Thức, 35 tuổi, một chuyên viên marketing tại Hà Nội, tâm sự về sự thay đổi trong cảm xúc của mình.

Sự lạnh nhạt này thường bắt nguồn từ một quá trình tâm lý phức tạp. Ban đầu, nỗi nhớ nhà quá đau đớn khiến nhiều người phải tìm cách giảm bớt sự gắn bó cảm xúc với quê hương như một cơ chế tự vệ. Họ tập trung vào việc xây dựng cuộc sống mới, mở rộng mối quan hệ ở thành phố và dần dần thu hẹp kết nối với quê nhà. Theo thời gian, sự xa cách này trở thành thờ ơ, và cuối cùng là lạnh nhạt. Năm đầu tiên xa nhà, tôi gọi điện về cho mẹ mỗi ngày. Năm thứ hai, mỗi tuần một lần. Đến năm thứ năm, tôi chỉ liên lạc về nhà vài lần một tháng. Giờ đây, có khi cả tháng tôi mới gọi điện về một lần, và thường là những cuộc gọi ngắn ngủi, vội vã, Lê Thị Hương, 32 tuổi, một kế toán viên tại Thành phố Hồ Chí Minh, thẳng thắn chia sẻ về sự suy giảm trong mối liên hệ với gia đình ở quê.

Không chỉ là tần suất liên lạc giảm sút, nhiều người trẻ còn phát triển một cảm giác xa lạ, thậm chí là tiêu cực đối với quê hương. Họ bắt đầu nhìn nhận nơi mình sinh ra với con mắt phê phán, so sánh những thiếu thốn, lạc hậu của quê nhà với sự tiện nghi, hiện đại của thành phố. Mỗi lần về quê, tôi lại thấy bực bội với đủ thứ: đường sá lồi lõm, nhà cửa cũ kỹ, thiếu thốn tiện nghi, thậm chí là cách suy nghĩ của người dân địa phương mà tôi cho là lạc hậu, thiếu cởi mở. Tôi biết suy nghĩ này không đúng, nhưng không thể ngăn mình có những so sánh như vậy, Trần Văn Quân, 29 tuổi, một kỹ sư xây dựng đã rời quê 11 năm, chia sẻ với sự day dứt.

Đáng lo ngại hơn, thái độ lạnh nhạt này không chỉ dừng lại ở cảm xúc mà còn biểu hiện qua hành động cụ thể. Nhiều người trẻ giảm dần sự đóng góp cho quê hương, không còn mặn mà với việc tham gia vào các hoạt động cộng đồng, phát triển địa phương. Họ chọn cách đứng ngoài những vấn đề của quê nhà với tâm lý đã ra đi thì không còn trách nhiệm. Chỉ khi nào có lợi ích trực tiếp, như việc xây dựng nhà mới, mua đất, họ mới tạm thời quan tâm đến những vấn đề ở quê. Trước đây, khi làng kêu gọi đóng góp xây dựng đình làng, tôi sẵn sàng ủng hộ dù số tiền không nhỏ. Nhưng giờ, khi nghe tin làng đang vận động kinh phí làm đường, tôi lại thấy do dự. Tôi tự hỏi tại sao mình phải đóng góp khi hầu như không bao giờ sử dụng con đường đó, anh Phạm Văn Dũng, 37 tuổi, một doanh nhân tại Đà Nẵng, chia sẻ về sự thay đổi trong thái độ của mình đối với các hoạt động cộng đồng ở quê hương.

Sự đứt gãy âm thầm – Di cư lao động và những tác động sâu sắc lên văn hóa bản địa

Bức tranh về làng quê Việt Nam không chỉ hiện lên với những ngôi nhà vắng chủ, những cánh đồng thiếu vắng bàn tay chăm sóc của người trẻ, mà còn là một thực trạng đáng lo ngại hơn: sự mai một dần của văn hóa bản địa. Khi người trẻ – những người vốn đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp nối và phát triển văn hóa truyền thống – rời làng đi xa, họ không chỉ mang theo sức lao động mà còn để lại phía sau một khoảng trống văn hóa to lớn. Sự đứt gãy này diễn ra âm thầm, từng ngày, từng giờ, không gây tiếng động nhưng để lại hậu quả lâu dài và sâu sắc đối với di sản văn hóa dân tộc. Từ những lễ hội truyền thống, nghề thủ công, ngôn ngữ địa phương, đến những câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ – tất cả đang dần mờ nhạt trong tâm thức của thế hệ mới, tạo ra một sự đứt gãy trong mạch nguồn văn hóa bản địa mà khó có thể hàn gắn.

Mạch nguồn văn hóa dần cạn – Khi không còn ai kể chuyện làng

Trong mỗi làng quê Việt Nam, từ xưa đến nay, những câu chuyện về lịch sử làng, về những con người và sự kiện đặc biệt, về nguồn gốc của các phong tục tập quán luôn được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người già trong làng, với ký ức dài và kinh nghiệm sống phong phú, thường đóng vai trò là những thủ thư sống – lưu giữ và truyền đạt kho tàng kiến thức dân gian này cho người trẻ. Tuy nhiên, khi người trẻ ra đi, chuỗi truyền thống này bị đứt đoạn. Tôi còn nhớ ngày xưa, mỗi tối, lũ trẻ trong xóm thường tụ tập ở nhà tôi để nghe tôi kể chuyện về lịch sử làng, về những vị anh hùng địa phương, về những phong tục từ xa xưa. Giờ thì chẳng còn ai đến nữa. Trẻ con thì theo cha mẹ lên thành phố cả rồi, còn những đứa ở lại thì chỉ biết dán mắt vào điện thoại, máy tính, ông Nguyễn Văn Thọ, 85 tuổi, một bô lão trong làng ở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, chia sẻ với nỗi buồn sâu lắng.

nhavantuonglai

Sự vắng bóng của người trẻ không chỉ làm gián đoạn việc truyền thụ kiến thức dân gian mà còn làm mất đi cơ hội để làm giàu thêm cho kho tàng văn hóa địa phương. Trong không gian văn hóa làng quê truyền thống, mỗi thế hệ đều có vai trò riêng: người già lưu giữ và truyền đạt; người trung niên thực hành và duy trì; người trẻ tiếp nhận, sáng tạo và làm mới. Khi một mắt xích trong chuỗi này bị thiếu, toàn bộ hệ thống văn hóa sẽ bị ảnh hưởng. Trong làng tôi, có một điệu múa truyền thống mỗi khi có lễ hội đình làng. Trước đây, các cô gái trẻ trong làng sẽ học điệu múa này từ những người phụ nữ lớn tuổi hơn. Nhưng năm nay, khi chuẩn bị cho lễ hội, chúng tôi không tìm đủ người để múa vì hầu hết các cô gái đã đi làm ăn xa. Chúng tôi phải thuê người từ đoàn văn nghệ huyện về biểu diễn, nhưng họ không hiểu ý nghĩa và tinh thần của điệu múa, chỉ làm theo động tác máy móc, bà Trần Thị Huệ, 67 tuổi, trưởng ban văn hóa thôn ở một làng quê tại Thái Bình, kể lại.

Sự đứt gãy trong việc truyền thụ văn hóa dân gian này còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc lưu giữ ngôn ngữ địa phương – một phần quan trọng trong bản sắc văn hóa của mỗi vùng miền. Những từ ngữ đặc trưng, thành ngữ, tục ngữ, ca dao địa phương dần biến mất khi không còn được sử dụng thường xuyên. Tiến sĩ Ngôn ngữ học Nguyễn Văn Huyên cho biết: Qua khảo sát của chúng tôi tại 30 làng quê ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, chúng tôi phát hiện rằng hơn 40% từ ngữ đặc trưng địa phương đã không còn được người trẻ dưới 30 tuổi biết đến và sử dụng. Đây là một mất mát lớn về mặt di sản văn hóa phi vật thể mà ít người nhận ra, dẫn đến sự biến mất thầm lặng, không có phản ứng cứu vãn kịp thời.

Hiện tượng mất dần ngôn ngữ địa phương cũng đồng nghĩa với sự sói mòn của những hiểu biết về môi trường tự nhiên địa phương. Trong ngôn ngữ của mỗi làng quê đều chứa đựng cả một hệ thống tri thức bản địa về thực vật, động vật, thổ nhưỡng và thời tiết – những kiến thức được đúc kết qua hàng trăm năm sinh sống gắn bó với thiên nhiên. Ở làng tôi, chỉ riêng về các loại rau dại có thể ăn được đã có hơn 50 tên gọi khác nhau, mỗi loại lại có cách hái, cách chế biến và công dụng riêng. Người già biết rõ mùa nào tìm loại rau nào, chỗ nào có nhiều. Giờ con cháu lên thành phố cả rồi, chẳng ai còn nhớ tên những loại rau này nữa, chứ đừng nói đến việc biết cách sử dụng chúng, bà Hoàng Thị Minh, 78 tuổi ở một làng quê Thanh Hóa tâm sự trong nỗi trăn trở.

Không chỉ là câu chuyện về tri thức, mà còn là vấn đề về tâm linh và niềm tin cộng đồng. Trong văn hóa làng xã Việt Nam, những câu chuyện về thành hoàng, về các vị thần bảo hộ làng, về những điềm báo và dấu hiệu tự nhiên luôn được truyền tụng qua nhiều đời. Đây không đơn thuần là mê tín mà là cách mà cộng đồng xây dựng bản sắc chung, là niềm tin gắn kết mọi người lại với nhau và với mảnh đất họ sinh sống. Ông Lê Văn Cường, nghiên cứu viên văn hóa dân gian, nhận xét: Khi người trẻ không còn hiểu về ý nghĩa của những câu chuyện này, không còn biết đến lịch sử của các di tích tâm linh trong làng, họ đánh mất đi một phần quan trọng trong bản sắc cá nhân và cộng đồng. Nó giống như một người không biết gốc gác của mình vậy – cảm giác bị mất nơi nương tựa, không biết mình thuộc về đâu.

Di sản bị bỏ quên – Những lễ hội, phong tục chỉ còn trong sách vở

Lễ hội và các nghi thức truyền thống từ lâu đã là linh hồn của đời sống văn hóa làng quê Việt Nam. Đây không chỉ là những sự kiện mang tính giải trí mà còn là cơ hội để gắn kết cộng đồng, tôn vinh lịch sử, và truyền dạy các giá trị đạo đức, tinh thần cho thế hệ sau. Tuy nhiên, trong bối cảnh người trẻ rời làng đi làm ăn xa, nhiều lễ hội truyền thống đang dần thu hẹp quy mô, giảm sút về nội dung, hoặc thậm chí biến mất hoàn toàn. Tại các buổi lễ hội làng hiện nay, phần lớn người tham gia là người già và trẻ em – thiếu vắng lực lượng nòng cốt là thanh niên, những người có đủ sức khỏe và nhiệt huyết để duy trì những hoạt động đòi hỏi thể lực và kỹ năng.

Lễ hội đình làng của chúng tôi trước đây kéo dài ba ngày, với đầy đủ các nghi thức truyền thống, các trò chơi dân gian, và các tiết mục văn nghệ đặc sắc. Giờ đây, chúng tôi chỉ tổ chức trong một ngày, và chủ yếu chỉ còn phần nghi lễ cúng kiến trang trọng. Các hoạt động vui chơi, biểu diễn văn nghệ gần như không còn vì thiếu người tham gia, ông Trần Văn Nghĩa, 72 tuổi, trưởng ban tổ chức lễ hội đình làng ở huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định chia sẻ với giọng đầy tiếc nuối. Không chỉ lễ hội đình làng, mà ngay cả những dịp quan trọng trong chu kỳ nông nghiệp như lễ hội cầu mưa, lễ hội mùa gặt cũng dần trở nên đơn giản hóa hoặc bị bỏ quên, đặc biệt ở những vùng nông thôn đang đô thị hóa nhanh chóng.

Không chỉ là sự suy giảm về quy mô và số lượng người tham gia, mà còn là sự mai một dần của ý nghĩa và tinh thần đích thực của các lễ hội. Nhiều người trẻ, khi có dịp trở về quê tham gia lễ hội, thường chỉ xem đó như một sự kiện vui chơi, giải trí mà không thực sự hiểu rõ về nguồn gốc, ý nghĩa và giá trị văn hóa sâu sắc của những hoạt động họ đang tham gia. Tôi thấy nhiều bạn trẻ về quê dự lễ hội chỉ biết chụp ảnh, quay video để đăng lên mạng xã hội. Họ không biết tại sao phải thực hiện nghi thức này, ý nghĩa của từng động tác trong điệu múa truyền thống là gì. Nhiều khi tôi muốn giải thích cho họ hiểu, nhưng họ lại không có thời gian hoặc không thật sự quan tâm, bà Nguyễn Thị Lý, 68 tuổi, một nghệ nhân dân gian ở làng nghề truyền thống tại Hưng Yên tâm sự. v

nhavantuonglai

Sự mai một của các phong tục, lễ hội còn thể hiện qua việc nhiều kỹ năng thủ công truyền thống liên quan đến việc chuẩn bị lễ hội đang dần biến mất. Từ việc làm đồ tế lễ, trang trí đình chùa, đến việc chế tác các vật dụng phục vụ cho lễ hội như cờ, lọng, kiệu… đều đòi hỏi những kỹ năng đặc thù được truyền từ đời này sang đời khác. Tiến sĩ Phạm Văn Lợi, chuyên gia về văn hóa dân gian nhận định: Hiện nay, chúng ta có thể thấy rằng nhiều làng xã đã phải thuê người từ bên ngoài để thực hiện những công việc này, hoặc thay thế bằng các sản phẩm công nghiệp sản xuất hàng loạt. Điều này không chỉ làm giảm đi tính độc đáo và linh thiêng của lễ hội mà còn đánh dấu sự mất đi không thể khôi phục của những kỹ năng thủ công truyền thống vốn là một phần quan trọng trong di sản văn hóa phi vật thể của chúng ta.

Biến đổi nhân chủng học – Cấu trúc cộng đồng và vai trò truyền thống bị xáo trộn

Sự di cư của người trẻ từ nông thôn ra thành thị không chỉ tạo ra những khoảng trống về mặt nhân khẩu học mà còn làm thay đổi sâu sắc cấu trúc xã hội và các mối quan hệ cộng đồng vốn đã tồn tại hàng trăm năm trong làng quê Việt Nam. Truyền thống làng xã Việt Nam luôn được xây dựng trên nền tảng của một cộng đồng đa thế hệ, trong đó mỗi nhóm tuổi đảm nhận những vai trò riêng biệt, bổ trợ cho nhau để tạo nên một hệ thống xã hội cân bằng và bền vững. Người già là những người giữ gìn tri thức, truyền thống và đạo đức; người trưởng thành đảm nhận vai trò lao động sản xuất và quản lý cộng đồng; thanh niên là lực lượng lao động chính và sáng tạo; trẻ em được nuôi dưỡng và giáo dục để tiếp nối các thế hệ đi trước.

Hiện nay, với làn sóng di cư mạnh mẽ của người trẻ, cấu trúc xã hội truyền thống này đang bị phá vỡ nghiêm trọng. Làng tôi bây giờ chỉ còn người già và trẻ con. Người già thì không đủ sức khỏe để làm nhiều việc, còn trẻ con thì lại cần được chăm sóc. Những công việc đồng áng nặng nhọc, những hoạt động cộng đồng cần nhiều sức lực giờ không còn ai đảm nhận. Mỗi khi có việc làng việc xóm, chúng tôi phải thuê người từ nơi khác đến làm, ông Nguyễn Văn Hòa, trưởng thôn ở một làng quê tại Thái Bình cho biết. Tình trạng này dẫn đến sự suy yếu của tinh thần cộng đồng và tính tương trợ lẫn nhau vốn là đặc trưng của làng quê Việt Nam.

Sự biến đổi trong cấu trúc xã hội này còn ảnh hưởng sâu sắc đến các thiết chế truyền thống như hương ước làng xã, vai trò của hội đồng kỳ mục, và các tổ chức tự quản trong cộng đồng. Trong quá khứ, những thiết chế này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự xã hội, giải quyết mâu thuẫn, và thúc đẩy sự đoàn kết trong cộng đồng. Tuy nhiên, khi thành phần dân số thay đổi, những thiết chế này cũng dần mất đi vai trò và tầm ảnh hưởng của mình. Trước đây, mỗi khi trong làng có mâu thuẫn, việc kiện tụng, chúng tôi thường giải quyết thông qua hội đồng hòa giải của làng. Các bô lão trong làng ngồi lại với nhau, dựa trên kinh nghiệm và uy tín của mình để giúp các bên hòa giải. Giờ thì mọi việc đều phải đưa lên chính quyền, lên tòa án. Tinh thần cộng đồng, ý thức tương thân tương ái đang dần bị thay thế bởi cách giải quyết hành chính, pháp lý cứng nhắc, ông Đặng Văn Thắng, 76 tuổi, nguyên là thành viên hội đồng kỳ mục của một làng quê ở Hà Nam chia sẻ.

Sự xáo trộn trong vai trò giới tính truyền thống cũng là một khía cạnh đáng chú ý của quá trình biến đổi nhân chủng học ở nông thôn. Khi nam giới trẻ tuổi di cư đi làm ăn xa, nhiều phụ nữ ở lại phải đảm nhận thêm những công việc vốn được xem là thuộc về nam giới. Điều này một mặt tạo ra sự trao quyền cho phụ nữ, nhưng mặt khác cũng tạo ra nhiều áp lực và thách thức. Tiến sĩ Trần Thị Minh Phương, chuyên gia về giới và phát triển nhận định: Chúng tôi thấy rằng ở nhiều vùng nông thôn, phụ nữ giờ đây không chỉ phải chăm sóc con cái, người già mà còn phải đảm nhiệm công việc đồng áng, quản lý tài chính gia đình, và thậm chí tham gia vào các quyết định cộng đồng – những vai trò trước đây thường do nam giới đảm nhận. Mặc dù điều này có thể được xem là một bước tiến trong việc thúc đẩy bình đẳng giới, nhưng nó cũng tạo ra gánh nặng kép cho nhiều phụ nữ nông thôn, đặc biệt là khi họ không được chuẩn bị đầy đủ về kiến thức, kỹ năng và tâm lý để đảm nhận những vai trò mới này.

Giữ chân người trẻ – Giữ lại mạch nguồn quê hương

Trước thực trạng làng quê ngày càng vắng bóng người trẻ và những hệ lụy văn hóa sâu sắc đi kèm, việc tìm ra các giải pháp để giữ chân thanh niên nông thôn hoặc thu hút họ trở về đang trở thành một yêu cầu cấp thiết. Đây không đơn thuần là vấn đề kinh tế hay nhân khẩu học, mà còn là một bài toán phức tạp liên quan đến sự tồn vong của văn hóa bản địa và bản sắc cộng đồng. Quá trình tìm kiếm giải pháp đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên liên quan, từ chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội, đến bản thân người dân nông thôn và cả những người trẻ đã rời làng. Mục tiêu không phải là ngăn chặn hoàn toàn dòng chảy di cư – một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế xã hội – mà là tạo ra những điều kiện để người trẻ có thể lựa chọn ở lại quê hương hoặc trở về đóng góp sau một thời gian làm việc, học tập ở nơi khác, từ đó duy trì sự liên tục của mạch nguồn văn hóa làng quê.

Làm sao để quê hương không chỉ là nơi để nhớ?

Quê hương trong tâm thức người Việt từ lâu đã không chỉ là một không gian địa lý đơn thuần mà còn là một không gian tinh thần, một điểm tựa tình cảm quan trọng. Tuy nhiên, để quê hương không chỉ là một nơi để nhớ về trong hoài niệm mà còn là một nơi để sống, để phát triển và gắn bó lâu dài, cần có những thay đổi căn bản trong cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề. Điều đầu tiên cần thay đổi chính là nhận thức về giá trị của cuộc sống nông thôn. Trong nhiều thập kỷ qua, xã hội ta đã hình thành một định kiến ngầm rằng thành công đồng nghĩa với việc rời bỏ nông thôn để đến với thành thị, rằng cuộc sống thành phố luôn tốt đẹp hơn, đáng mơ ước hơn so với cuộc sống làng quê.

nhavantuonglai

Khi còn học phổ thông, tôi và bạn bè luôn được cổ vũ phải học thật giỏi để thi đại học, lên thành phố lớn và ở lại đó. Dường như không ai nói với chúng tôi rằng trở về quê hương, phát triển quê hương cũng là một lựa chọn đáng tự hào, Nguyễn Văn Tuấn, 28 tuổi, một thanh niên gốc nông thôn hiện đang làm việc tại Hà Nội chia sẻ. Nhận thức này cần được thay đổi thông qua việc tạo ra những hình mẫu thành công tại chỗ, những tấm gương về người trẻ đã lựa chọn ở lại hoặc trở về quê hương và gặt hái thành công không chỉ về mặt kinh tế mà còn về chất lượng cuộc sống. Phạm Văn Mạnh, 32 tuổi, một thanh niên đã từ bỏ công việc ổn định tại thành phố Hồ Chí Minh để trở về quê hương ở An Giang phát triển mô hình nông nghiệp hữu cơ kết hợp du lịch sinh thái là một ví dụ điển hình. Ban đầu, mọi người trong làng, kể cả gia đình tôi, đều cho rằng tôi đã điên khi từ bỏ công việc lương cao ở thành phố để về quê trồng trọt. Nhưng sau 5 năm, khi mô hình của tôi bắt đầu gặt hái thành công, tạo công ăn việc làm cho hơn 20 người trong làng và thu nhập cao hơn so với công việc cũ ở thành phố, nhiều người đã bắt đầu thay đổi cách nhìn, Mạnh chia sẻ.

Bên cạnh việc thay đổi nhận thức, việc tạo ra một môi trường sống có chất lượng tại nông thôn cũng là yếu tố quan trọng để giữ chân người trẻ. Trong nhiều cuộc khảo sát về lý do khiến thanh niên rời bỏ nông thôn, bên cạnh vấn đề thu nhập, nhiều người trẻ còn đề cập đến sự thiếu thốn các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục chất lượng cao, và các hoạt động văn hóa, giải trí. Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, chuyên gia về phát triển nông thôn, nhận định: Đầu tư vào cơ sở hạ tầng vật chất như đường sá, điện, nước sạch là rất quan trọng, nhưng chưa đủ. Chúng ta cần phải quan tâm nhiều hơn đến cơ sở hạ tầng xã hội như trường học, trạm y tế, thư viện, không gian công cộng, và các hoạt động văn hóa cộng đồng. Đây là những yếu tố góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống và giữ chân người trẻ. Một số địa phương đã bắt đầu triển khai các mô hình nông thôn mới nâng cao với trọng tâm không chỉ là phát triển kinh tế mà còn chú trọng đến việc xây dựng không gian sống văn minh, hiện đại nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của nông thôn.

Một khía cạnh quan trọng khác để biến quê hương thành một nơi đáng sống chứ không chỉ là nơi để nhớ chính là việc tạo ra các không gian và cơ hội cho người trẻ được tham gia vào quá trình ra quyết định và định hướng phát triển của cộng đồng. Nhiều khi người trẻ chúng tôi có những ý tưởng, sáng kiến để phát triển quê hương, nhưng thường gặp phải sự nghi ngờ hoặc thậm chí phản đối từ thế hệ lớn tuổi hơn. Điều này khiến chúng tôi cảm thấy bị gạt ra ngoài lề và không có động lực để ở lại đóng góp, Lê Thị Hương, 26 tuổi, một cử nhân nông nghiệp đã trở về quê hương ở Nghệ An sau khi tốt nghiệp, chia sẻ. Để giải quyết vấn đề này, một số địa phương đã thử nghiệm các mô hình như hội đồng thanh niên làng, nơi người trẻ có cơ hội đề xuất và tham gia thực hiện các dự án phát triển cộng đồng, hoặc các chương trình cố vấn chéo giữa người già có kinh nghiệm và người trẻ có kiến thức mới, sáng tạo.

Tái thiết không gian sống – Kinh tế nông thôn cần một cơ hội mới

Để giữ chân người trẻ ở lại nông thôn hoặc thu hút họ trở về sau thời gian làm việc, học tập ở nơi khác, việc tái cơ cấu và phát triển kinh tế nông thôn là một yếu tố then chốt. Mô hình kinh tế nông thôn truyền thống dựa chủ yếu vào nông nghiệp quy mô nhỏ, công nghệ thấp và năng suất hạn chế đã không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Để tạo ra những cơ hội kinh tế hấp dẫn, có khả năng cạnh tranh với đô thị, khu công nghiệp, cần có một cách tiếp cận toàn diện và đổi mới trong phát triển kinh tế nông thôn. Việc áp dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp là một hướng đi quan trọng để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp, từ đó tạo thu nhập ổn định và hấp dẫn cho người dân.

Nông nghiệp truyền thống thường bị coi là công việc vất vả, bẩn thỉu và thu nhập thấp. Nhưng khi áp dụng công nghệ cao, nông nghiệp có thể trở thành một ngành sạch, thông minh và mang lại giá trị cao, ông Trần Văn Khánh, Giám đốc một doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao tại Lâm Đồng chia sẻ. Mô hình nông nghiệp công nghệ cao của ông Khánh không chỉ tạo ra sản phẩm có chất lượng và giá trị cao mà còn thu hút được nhiều kỹ sư, cử nhân trẻ về làm việc nhờ môi trường làm việc chuyên nghiệp và thu nhập cạnh tranh. Tương tự, các mô hình nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu cũng đang thu hút sự quan tâm và tham gia của nhiều người trẻ có học thức, nhờ vào tính bền vững và triển vọng kinh tế lâu dài.

Bên cạnh việc đổi mới ngành nông nghiệp truyền thống, việc phát triển các ngành kinh tế phi nông nghiệp tại nông thôn cũng là một hướng đi quan trọng để đa dạng hóa cơ hội việc làm và tạo thu nhập. Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin và internet, nhiều công việc có thể được thực hiện từ xa mà không cần phải có mặt tại văn phòng ở thành phố. Đây là cơ hội để phát triển các mô hình làm việc từ xa, dịch vụ kỹ thuật số tại nông thôn, Tiến sĩ Vũ Thành Long, chuyên gia về kinh tế số nhận định. Một số mô hình đã bắt đầu xuất hiện như các trung tâm làm việc từ xa (remote working hub) tại các vùng nông thôn có cảnh quan đẹp, không khí trong lành, thu hút các chuyên gia, nhân viên văn phòng muốn tránh xa sự ồn ào, ô nhiễm của thành phố.

nhavantuonglai

Du lịch nông thôn, du lịch sinh thái và du lịch trải nghiệm cũng là những lĩnh vực tiềm năng có thể tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người dân nông thôn, đồng thời góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa bản địa. Người trẻ có lợi thế về ngoại ngữ, kỹ năng số và hiểu biết về thị hiếu của du khách hiện đại nên rất phù hợp để tham gia vào ngành du lịch nông thôn. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, du lịch nông thôn cần được quy hoạch và quản lý cẩn thận để tránh làm mất đi bản sắc và giá trị văn hóa đặc trưng vốn là điểm hấp dẫn chính của nó, bà Nguyễn Thị Hạnh, chuyên gia về du lịch bền vững lưu ý. Một số địa phương như Hội An (Quảng Nam), Mai Châu (Hòa Bình), Bắc Hà (Lào Cai) đã thành công trong việc phát triển các mô hình du lịch cộng đồng, tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho người dân bản địa và góp phần bảo tồn văn hóa truyền thống.

Việc tái thiết không gian sống nông thôn cũng cần chú trọng đến khía cạnh kết nối – cả kết nối vật lý và kết nối số. Hệ thống giao thông thuận tiện, kết nối nông thôn với các trung tâm đô thị và các vùng lân cận giúp giảm cảm giác cách biệt và tạo điều kiện cho người dân nông thôn tiếp cận các dịch vụ, cơ hội không có sẵn tại địa phương. Đồng thời, hạ tầng số phát triển với mạng internet băng thông rộng, ổn định là điều kiện tiên quyết để người dân nông thôn, đặc biệt là người trẻ, có thể tham gia vào nền kinh tế số, tiếp cận thông tin, giáo dục trực tuyến và duy trì kết nối với thế giới bên ngoài.

Trước đây, con trai tôi luôn phàn nàn về tốc độ internet chậm chạp ở quê, khiến cậu ấy không thể làm việc hiệu quả khi về thăm nhà. Nhưng từ khi xã chúng tôi được đầu tư hạ tầng internet cáp quang, con trai tôi đã có thể về quê làm việc từ xa cả tuần mà không bị gián đoạn công việc. Dần dần, cậu ấy về quê thăm nhà thường xuyên hơn và gần đây còn nói đến chuyện mua đất xây nhà ở quê để có thể làm việc từ xa trong môi trường trong lành, bà Trần Thị Hà, 62 tuổi, một người dân ở xã Phong Châu, tỉnh Phú Thọ chia sẻ. Câu chuyện của bà Hà không phải là trường hợp cá biệt. Theo một khảo sát gần đây của Viện Nghiên cứu Phát triển Nông thôn, có đến 68% thanh niên nông thôn đã di cư cho biết họ sẵn sàng cân nhắc trở về quê sinh sống và làm việc nếu có cơ hội việc làm phù hợp với chuyên môn và kết nối internet ổn định để duy trì liên lạc và tiếp cận thông tin.

Ngoài ra, để tái thiết không gian sống nông thôn trở nên hấp dẫn hơn đối với người trẻ, cần thay đổi cách thiết kế và quy hoạch các khu dân cư nông thôn theo hướng hiện đại, tiện nghi nhưng vẫn giữ được bản sắc truyền thống. Các không gian công cộng như công viên, sân thể thao, nhà văn hóa cộng đồng cần được thiết kế và vận hành một cách linh hoạt để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhóm tuổi, đặc biệt là thanh niên. Nhiều làng quê hiện nay chỉ có nhà văn hóa để phục vụ các cuộc họp hành chính hoặc sinh hoạt của người cao tuổi, thiếu các không gian dành riêng cho thanh niên. Điều này khiến người trẻ cảm thấy không có chỗ dành cho mình trong cộng đồng, ông Phạm Văn Minh, một kiến trúc sư chuyên về quy hoạch nông thôn nhận xét. Một số mô hình mới như làng thông minh (smart village), nơi kết hợp giữa lối sống truyền thống với tiện nghi hiện đại và ứng dụng công nghệ trong quản lý cộng đồng, đang được thử nghiệm ở một số địa phương và bước đầu cho thấy khả năng thu hút người trẻ quay trở về sinh sống.

Văn hóa bản địa trong đời sống hiện đại – Cần được làm mới để hồi sinh

Trong công cuộc giữ chân người trẻ và duy trì mạch nguồn văn hóa làng quê, việc làm mới các giá trị văn hóa truyền thống để phù hợp với đời sống hiện đại là một thách thức lớn nhưng cũng là một cơ hội đầy tiềm năng. Văn hóa bản địa không phải là một thực thể tĩnh, bất biến mà luôn vận động, thay đổi và thích nghi theo thời gian. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện đại hóa và toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng, sự thay đổi này diễn ra với tốc độ chóng mặt, khiến nhiều giá trị truyền thống không kịp thích nghi và dần bị lãng quên, đặc biệt là trong tâm thức của thế hệ trẻ.

Vấn đề không phải là người trẻ không quan tâm đến văn hóa truyền thống, mà là cách thức mà văn hóa truyền thống được trình bày và truyền đạt không còn phù hợp với lối sống và tư duy của họ, Tiến sĩ Lê Thị Hoài An, chuyên gia về nhân học văn hóa nhận định. Theo bà, để văn hóa bản địa có thể hồi sinh và phát triển trong đời sống hiện đại, cần có những cách tiếp cận mới, sáng tạo và phù hợp với thế hệ người tiếp nhận. Một trong những hướng đi khả thi là việc kết hợp giữa công nghệ số và truyền thống văn hóa. Các ứng dụng di động, nền tảng trực tuyến, công nghệ thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) có thể được sử dụng để ghi lại, lưu trữ và truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống một cách sinh động, hấp dẫn và dễ tiếp cận đối với người trẻ.

nhavantuonglai

Chúng tôi đã phát triển một ứng dụng di động cho phép người dùng khám phá lịch sử và văn hóa của làng cổ Đường Lâm thông qua công nghệ thực tế tăng cường. Khi du khách đến thăm làng, họ có thể quét các mã QR đặt tại các điểm di tích để xem video, hình ảnh hoặc thông tin chi tiết về lịch sử, kiến trúc và những câu chuyện liên quan đến địa điểm đó. Điều đáng mừng là không chỉ du khách mà nhiều người trẻ trong làng cũng tải ứng dụng này để tìm hiểu sâu hơn về văn hóa quê hương mình, Nguyễn Minh Đức, 30 tuổi, một kỹ sư phần mềm gốc Đường Lâm chia sẻ về dự án của mình. Tương tự, các sáng kiến như số hóa truyện dân gian, tài liệu hóa các nghi lễ truyền thống, xây dựng bản đồ văn hóa tương tác cũng đang được triển khai ở nhiều địa phương, giúp bảo tồn và phổ biến di sản văn hóa phi vật thể một cách hiệu quả.

Bên cạnh việc ứng dụng công nghệ, việc tái diễn giải và làm mới các giá trị văn hóa truyền thống để phù hợp với bối cảnh đương đại cũng là một cách tiếp cận quan trọng. Nhiều người lầm tưởng rằng bảo tồn văn hóa đồng nghĩa với việc giữ nguyên mọi thứ như xưa, nhưng thực tế, văn hóa cần được làm mới liên tục để tồn tại và phát triển, ông Hoàng Anh Tuấn, Giám đốc một công ty sáng tạo văn hóa chia sẻ. Công ty của ông Tuấn đã thành công trong việc phát triển dòng sản phẩm thời trang và đồ gia dụng hiện đại lấy cảm hứng từ các họa tiết, biểu tượng trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Chúng tôi không chỉ sao chép lại các họa tiết cổ mà còn tái diễn giải chúng theo ngôn ngữ thẩm mỹ đương đại, kết hợp với công năng và phong cách sống hiện đại. Sản phẩm của chúng tôi được nhiều người trẻ yêu thích vì nó đáp ứng nhu cầu thực tế của họ đồng thời giúp họ thể hiện niềm tự hào về di sản văn hóa dân tộc, ông Tuấn nói thêm.

Sự tham gia trực tiếp của người trẻ vào quá trình bảo tồn và phát triển văn hóa bản địa cũng là một yếu tố then chốt để văn hóa truyền thống có thể hồi sinh trong đời sống hiện đại. Thay vì coi người trẻ chỉ là đối tượng tiếp nhận văn hóa một cách thụ động, cần khuyến khích họ trở thành những chủ thể tích cực trong việc tái tạo và làm giàu cho di sản văn hóa. Chúng tôi đã tổ chức các hội thảo sáng tạo nơi thanh niên và các nghệ nhân truyền thống cùng làm việc để tạo ra những sản phẩm văn hóa mới, kết hợp giữa kỹ thuật truyền thống và ý tưởng đương đại. Qua đó, không chỉ các kỹ năng thủ công truyền thống được truyền lại cho thế hệ trẻ mà còn tạo ra không gian cho sự đổi mới và sáng tạo, cô Trần Hồng Nhung, điều phối viên chương trình bảo tồn văn hóa tại một tổ chức phi chính phủ cho biết. Những sáng kiến tương tự như các trại sáng tác dành cho người trẻ lấy cảm hứng từ văn hóa truyền thống, các cuộc thi thiết kế kết hợp yếu tố hiện đại và truyền thống, hay các dự án cộng đồng do thanh niên khởi xướng để bảo tồn di sản địa phương đang được triển khai ở nhiều nơi và thu hút sự tham gia tích cực của người trẻ.

Một khía cạnh quan trọng khác trong việc làm mới văn hóa bản địa là tạo ra các diễn đàn, không gian để thảo luận cởi mở về ý nghĩa và giá trị của các phong tục, tập quán truyền thống trong bối cảnh hiện đại. Trong quá trình này, việc phân biệt giữa hạt nhân văn hóa cần được bảo tồn và những yếu tố hình thức có thể linh hoạt thay đổi là rất quan trọng. Ví dụ, trong lễ hội truyền thống, hạt nhân văn hóa có thể là tinh thần tôn vinh tổ tiên, sự đoàn kết cộng đồng, hoặc mối quan hệ hài hòa với thiên nhiên. Những giá trị cốt lõi này cần được bảo tồn và nhấn mạnh. Tuy nhiên, các hình thức biểu đạt như cách thức tổ chức, thời gian, không gian, hay các hoạt động cụ thể có thể được điều chỉnh để phù hợp với điều kiện hiện tại và thu hút sự tham gia của người trẻ, Tiến sĩ Nguyễn Thị Mai, chuyên gia về văn hóa dân gian giải thích.

Kết nối thế hệ – Cầu nối giữa truyền thống và hiện đại

Để giữ chân người trẻ và bảo tồn mạch nguồn văn hóa quê hương, việc xây dựng cầu nối giữa các thế hệ đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Khoảng cách thế hệ trong xã hội hiện đại không chỉ là khoảng cách về tuổi tác mà còn là khoảng cách về trải nghiệm, tư tưởng và cách nhìn nhận thế giới – được khuếch đại bởi tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ và xã hội. Trong bối cảnh nông thôn, khoảng cách này càng trở nên rõ rệt khi người già thường gắn bó với lối sống và giá trị truyền thống, trong khi người trẻ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa đô thị và toàn cầu. Để thu hẹp khoảng cách này, cần có những sáng kiến và nỗ lực có chủ đích từ cả hai phía.

Chúng tôi đã triển khai dự án Cầu nối thế hệ tại 5 xã thuộc tỉnh Thái Bình, nơi các nhóm thanh niên được giao nhiệm vụ thu thập, ghi chép và số hóa những câu chuyện, kinh nghiệm và hiểu biết của người cao tuổi trong làng. Qua quá trình này, không chỉ những kiến thức quý báu được lưu giữ mà còn tạo ra cơ hội để hai thế hệ lắng nghe, thấu hiểu và học hỏi lẫn nhau, bà Đỗ Thị Minh Nguyệt, điều phối viên dự án chia sẻ. Kết quả của dự án không chỉ là một kho tư liệu phong phú về văn hóa địa phương mà còn là sự thay đổi trong nhận thức của cả người già và người trẻ. Tôi không ngờ ông nội tôi biết nhiều chuyện hay đến thế. Qua những buổi trò chuyện dài với ông, tôi không chỉ học được nhiều điều về lịch sử làng mà còn hiểu hơn về gốc rễ và con người của chính mình, Trần Minh Tuấn, 22 tuổi, một tình nguyện viên của dự án chia sẻ.

nhavantuonglai

Bên cạnh việc truyền đạt kiến thức và câu chuyện từ người già đến người trẻ, việc tạo cơ hội cho người già học hỏi và tiếp cận với kiến thức, kỹ năng mới từ thế hệ trẻ cũng là một phần quan trọng của quá trình kết nối thế hệ. Các chương trình như Lớp học công nghệ cho người cao tuổi do thanh niên trong làng tổ chức đã giúp người lớn tuổi tiếp cận với công nghệ số, từ đó có thể duy trì liên lạc với con cháu ở xa, tiếp cận thông tin và giải trí. Ban đầu tôi rất ngại khi cầm điện thoại thông minh, sợ làm hỏng hoặc dùng không đúng. Nhưng từ khi tham gia lớp học do các cháu thanh niên trong làng tổ chức, giờ đây tôi đã có thể tự tin sử dụng điện thoại để gọi video cho con cháu, xem tin tức và thậm chí tham gia nhóm chat với những người bạn già của mình, bà Nguyễn Thị Lan, 75 tuổi, một học viên của chương trình chia sẻ với niềm vui. Việc thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số giữa các thế hệ không chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người cao tuổi mà còn tạo ra cơ hội để hai thế hệ cùng tham gia vào những hoạt động chung, từ đó tăng cường sự gắn kết và hiểu biết lẫn nhau.

Các hoạt động văn hóa, giải trí có sự tham gia của nhiều thế hệ cũng là một cách hiệu quả để kết nối người già và người trẻ. Thay vì tổ chức các hoạt động riêng biệt cho từng nhóm tuổi, nhiều cộng đồng đã thử nghiệm các mô hình hoạt động liên thế hệ như câu lạc bộ văn nghệ kết hợp giữa âm nhạc truyền thống và hiện đại, các cuộc thi nấu ăn nơi người già và người trẻ cùng hợp tác để tạo ra những món ăn kết hợp giữa công thức truyền thống và cách trình bày hiện đại, hay các dự án cộng đồng nơi sự khôn ngoan và kinh nghiệm của người già kết hợp với sự năng động và sáng tạo của người trẻ. Trong lễ hội làng năm nay, chúng tôi đã tổ chức một chương trình văn nghệ đặc biệt, nơi các cụ ông cụ bà trình diễn các làn điệu dân ca truyền thống, trong khi các bạn trẻ đệm nhạc bằng các nhạc cụ hiện đại và thêm vào các động tác nhảy hiện đại. Kết quả là một tiết mục đầy sức sống, vừa giữ được hồn cốt truyền thống vừa mang hơi thở đương đại. Quan trọng hơn, quá trình tập luyện đã tạo ra nhiều cuộc trò chuyện, chia sẻ và học hỏi giữa hai thế hệ, ông Nguyễn Văn Thành, trưởng ban văn hóa một xã ở tỉnh Bắc Giang chia sẻ.

Một phương pháp hiệu quả khác để kết nối các thế hệ là thông qua các dự án cộng đồng nhằm giải quyết những vấn đề chung của địa phương. Khi cùng làm việc để đạt được một mục tiêu chung, người già và người trẻ có cơ hội đóng góp những thế mạnh riêng và học hỏi lẫn nhau. Dự án Làng xanh của chúng tôi nhằm tạo ra một môi trường sống sạch đẹp hơn thông qua việc trồng cây, xử lý rác thải và làm đẹp không gian công cộng. Người cao tuổi đóng góp kiến thức về các loài cây địa phương, kỹ thuật trồng trọt truyền thống và lịch sử của làng, trong khi người trẻ mang đến những ý tưởng thiết kế mới, kỹ năng tổ chức và khả năng huy động nguồn lực qua mạng xã hội. Sự kết hợp này đã tạo ra những kết quả vượt xa mong đợi và quan trọng hơn, nó giúp hai thế hệ nhìn nhận và trân trọng giá trị của nhau, ông Lê Văn Thông, điều phối viên dự án chia sẻ.

Hành trình tìm lại cân bằng giữa phát triển và gìn giữ bản sắc

Hiện tượng di cư của người trẻ từ nông thôn ra thành thị và những tác động văn hóa đi kèm là một thách thức phức tạp mà Việt Nam và nhiều quốc gia đang phát triển khác đang phải đối mặt. Đây không phải là một vấn đề có thể giải quyết một cách đơn giản hay nhanh chóng, mà đòi hỏi sự tham gia và nỗ lực của nhiều bên liên quan, từ chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội, đến người dân địa phương và bản thân những người trẻ. Mục tiêu không phải là ngăn chặn hoàn toàn xu hướng di cư – một phần tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội – mà là tìm ra một cân bằng mới giữa nhu cầu phát triển cá nhân của người trẻ và việc gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

Những giải pháp như phát triển kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại và bền vững, cải thiện chất lượng sống ở nông thôn, làm mới các giá trị văn hóa truyền thống và xây dựng cầu nối giữa các thế hệ đang được triển khai ở nhiều địa phương và bước đầu cho thấy những kết quả khả quan. Tuy nhiên, để những nỗ lực này mang lại hiệu quả bền vững, cần có một tầm nhìn dài hạn và sự kiên trì trong triển khai thực hiện. Quan trọng hơn cả, cần có sự thay đổi trong nhận thức xã hội về giá trị của đời sống nông thôn và văn hóa bản địa – không phải là thứ lỗi thời, cần được vượt qua mà là nguồn tài nguyên quý giá có thể được tái định hình và làm giàu thêm trong bối cảnh đương đại.

Câu chuyện về di cư và mất kết nối văn hóa không chỉ là câu chuyện về những làng quê vắng bóng người trẻ hay những lễ hội bị lãng quên. Đó còn là câu chuyện về bản sắc và sự bền vững của một dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa và số hóa. Trong hành trình phát triển và hội nhập, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa không phải là một sự lựa chọn mà là một yêu cầu thiết yếu để dân tộc ta có thể tiến vào tương lai với sự tự tin và bản lĩnh. Và trong quá trình này, vai trò của người trẻ – những người vừa là người thừa kế vừa là người sáng tạo văn hóa – là vô cùng quan trọng. Khi người trẻ có thể tìm thấy cơ hội phát triển tại chính quê hương mình, khi họ nhận thức được giá trị của di sản văn hóa mà họ thừa kế và có khả năng làm giàu thêm cho di sản đó, khi đó, mạch nguồn văn hóa sẽ không bị đứt đoạn mà còn tiếp tục tuôn chảy, nuôi dưỡng sự phát triển bền vững của cộng đồng và đất nước.

Về dự án Di sản sống và sự biến đổi văn hóa trong đời sống đương đại

Bài viết Làng quê vắng bóng người trẻ – Khi hành trình mưu sinh dẫn đến sự rạn nứt văn hóa nằm trong khuôn khổ dự án Di sản sống và sự biến đổi văn hóa trong đời sống đương đại do nhóm nghiên cứu nhavantuonglai và các cộng sự khởi xướng và chủ trì thực hiện trong giai đoạn 2017 – 2024, với sự tài trợ kinh phí, nguồn lực chuyên môn và tư vấn triển khai từ tổ chức Storytellers Vietnam. Dự án triển khai khảo sát tại 36 tỉnh thành trên cả nước, bao quát đa dạng địa bàn từ miền núi phía Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long, phân bố theo phổ địa lý xã hội từ đô thị lớn, vùng ven đô, nông thôn đến các khu vực dân tộc thiểu số.

nhavantuonglai

Dự án đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu các hình thái biểu hiện, các đứt gãy phi vật thể và khả năng tái sinh của di sản văn hóa trong bối cảnh chuyển đổi xã hội Việt Nam. Các chủ đề nghiên cứu được triển khai theo phương pháp phân tích chiều sâu, bao gồm: hiện tượng di cư lao động và sự đứt gãy kết nối văn hóa ở thế hệ trẻ; vai trò của ký ức tập thể và ký ức phi chính thống trong cấu trúc bản sắc vùng miền; chức năng biểu tượng và không gian kết nối của bữa cơm gia đình; sự chuyển hóa của văn hóa hình thể dưới tác động của mạng xã hội và nền kinh tế biểu tượng; biến đổi trong nghi lễ tang ma và quá trình hiện đại hóa các thực hành chia ly; vị thế biên chuyển của người cao tuổi trong cấu trúc gia đình đương đại; văn hóa lãng quên và hiện tượng phủ nhận ký ức tập thể; cùng với khủng hoảng bản sắc và trạng thái vô căn cước trong tiến trình đô thị hoá gia tốc.

Phương pháp tiếp cận của dự án mang tính liên ngành, kết hợp giữa nhân học thực địa, phân tích nhân học hình ảnh, phương pháp điều tra xã hội học, và phân tích diễn ngôn truyền thông. Quy trình thu thập dữ liệu được thiết kế theo phương pháp luận khoa học xã hội, bao gồm phỏng vấn sâu, quan sát tham dự, điền dã liên vùng, khảo sát định tính về hồi ức tập thể, cũng như tổ chức đối thoại chuyên đề với các nhóm cộng đồng đại diện.

Ý kiến của người dân được ghi chép, phân loại và tổng hợp theo bộ công cụ và biểu mẫu cố định, nhằm đảm bảo tính hệ thống trong quá trình khai thác thông tin, tìm kiếm dữ liệu và xây dựng các kết luận dựa trên chứng cứ từ thông tin đầu vào. Nhóm nghiên cứu tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc đạo đức nghiên cứu, cam kết không điều hướng câu trả lời, không cung cấp thông tin sai lệch hoặc thiếu căn cứ thực chứng.

Ý kiến của chuyên gia được trích dẫn và sử dụng dựa trên các bài phỏng vấn chuyên sâu từ nhóm nghiên cứu, phát ngôn công khai trên báo chí và trích xuất từ các kết luận trong báo cáo khoa học của chuyên gia. Nhóm nghiên cứu bảo đảm tính chính xác và nguyên văn trong quá trình trích dẫn, không cung cấp thông tin sai lệch, thiếu căn cứ hoặc không có dẫn chứng liên quan đến các chuyên gia được tham chiếu trong nghiên cứu.

Dự án nhận được sự tham vấn học thuật từ các nhà nghiên cứu thuộc Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (VICAS), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội. Đồng thời, quá trình triển khai thực địa có sự hợp tác chặt chẽ với các nhóm cộng đồng địa phương, các nhà báo, nghệ nhân dân gian, cán bộ văn hóa cấp huyện và tỉnh trong việc tham vấn, thực tế hóa các vấn đề nghiên cứu và đề xuất các giải pháp triển khai phù hợp với bối cảnh địa phương, giúp dự án đạt được các mục tiêu thu thập dữ liệu định tính và định lượng.

Thông qua dự án, nhavantuonglai và các cộng sự mong muốn không chỉ đóng góp vào việc làm rõ các quá trình biến đổi văn hóa hiện đang diễn ra trong các không gian xã hội khác nhau, mà còn kiến tạo nền tảng đối thoại đa chiều – nơi người dân, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách có thể cùng nhau trao đổi, tái thẩm định và định hình lại các giá trị văn hóa trong bối cảnh đương đại.

Các bài viết đã xuất bản:

Ký ức tập thể và giá trị bảo tồn trong bối cảnh sáp nhập hành chính tại Việt Nam.

Làng quê vắng bóng người trẻ – Khi hành trình mưu sinh dẫn đến sự rạn nứt văn hóa.

Quê hương chỉ còn trong trí nhớ – Ký ức tập thể và sự phai mờ bản sắc địa phương.

Tái thiết mạch nguồn – Làm mới bản sắc văn hóa để gìn giữ ký ức và kết nối thế hệ.

Mâm cơm vắng người – Khi bữa ăn không còn là nơi giữ lửa gia đình.

Cái chết bị vội vàng hóa – Nghi lễ tang ma giữa thời công nghiệp.

Người già không còn được lắng nghe – Sự trầm lặng của thế hệ kể chuyện.

Những người không quê – Đô thị hóa và khủng hoảng căn tính của người trẻ.

Không ai còn nhắc lại – Khi ký ức bị từ chối và đẩy lùi vào quên lãng.

Gia đình không còn như cũ – Tái cấu trúc mối quan hệ giữa các thế hệ.

Cơ thể bị nhìn thấy – Khi hình thể trở thành công cụ biểu hiện và thương mại hóa.

Với nhiều bài viết khác đang trong quá trình biên tập, dự án hứa hẹn sẽ tiếp tục mở ra những góc nhìn mới mẻ về hành trình tìm kiếm, giữ gìn và tái tạo bản sắc văn hóa Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa và công nghệ số.

nhavantuonglai

Share:

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »
Tư duy xanh để sống an lành

Tư duy xanh để sống an lành

Thực hành tôn giáo giúp đời sống an lành hạnh phúc giác ngộ và mang lại năng lượng tích cực cho bản thân giá trị đẹp cho cộng đồng.

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Nhắn tin
1

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

2

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Gửi mail
1

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

2

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.