Tái thiết mạch nguồn – Làm mới bản sắc văn hóa để gìn giữ ký ức và kết nối thế hệ | nhavantuonglai
Chúng ta cần một hướng tiếp cận mới, không chỉ giữ gìn quá khứ mà còn tái tạo nó thành một phần sống động trong đời sống đương đại.

Tái thiết mạch nguồn – Làm mới bản sắc văn hóa để gìn giữ ký ức và kết nối thế hệ

Chúng ta cần một hướng tiếp cận mới, không chỉ giữ gìn quá khứ mà còn tái tạo nó thành một phần sống động trong đời sống đương đại.

62 phút đọc  · lượt xem.

Chúng ta cần một hướng tiếp cận mới, không chỉ giữ gìn quá khứ mà còn tái tạo nó thành một phần sống động trong đời sống đương đại.

Khi bảo tồn không còn đủ – Cần một hướng đi mới cho văn hóa bản địa

Trong không gian tĩnh lặng của làng Đông Hòa cổ, những ngôi nhà gỗ cổ kính đứng im lìm như những nhân chứng câm lặng của thời gian. Những công trình được ghi danh di sản, những lễ hội được phục dựng theo định kỳ, nhưng sân đình vẫn vắng bóng tiếng cười của trẻ nhỏ và sức sống của cộng đồng. Mô hình bảo tồn truyền thống – với những bảo tàng tĩnh, những nghi lễ phục dựng và những chính sách bảo vệ trên giấy – đang dần bộc lộ giới hạn trong việc thực sự hồi sinh văn hóa bản địa. Chúng ta cần một hướng tiếp cận mới, không chỉ giữ gìn quá khứ mà còn tái tạo nó thành một phần sống động trong đời sống đương đại.

Bảo tồn trên giấy – Vì sao chưa đủ để hồi sinh bản sắc?

Trên hành lang của Sở Văn hóa tỉnh Quảng Nam, những hồ sơ dày cộp về di sản văn hóa làng quê xếp ngay ngắn trong tủ kính. Bà Nguyễn Thị Mai, 67 tuổi, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhìn vào chồng tài liệu ấy với ánh mắt trăn trở: Chúng ta có quá nhiều chính sách bảo tồn, nhưng văn hóa không phải vật để gìn giữ trong tủ kính. Nó cần được sống và thở trong lòng cộng đồng. Thực tế này phản ánh một nghịch lý đáng buồn trong công cuộc bảo tồn văn hóa hiện nay – chúng ta đang bảo tồn hình thức nhưng đánh mất linh hồn của di sản. Nhiều làng nghề truyền thống được công nhận di sản cấp quốc gia, nhưng những người thợ thực sự không còn đủ sức để duy trì nghề. Người già thì tuổi cao sức yếu, người trẻ lại đã ra đi tìm tương lai ở thành phố. Các lễ hội được tổ chức đều đặn theo lịch, nhưng thiếu vắng sự tham gia tự nguyện và cảm thức sâu sắc của cộng đồng, biến chúng thành những màn trình diễn phục vụ du khách hơn là nghi lễ có ý nghĩa văn hóa và tâm linh thực sự.

nhavantuonglai

Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam năm 2023, trong số 320 làng nghề truyền thống được khảo sát trên toàn quốc, có tới 78% làng nghề đang đối mặt với tình trạng thiếu người kế cận nghiêm trọng. Đáng chú ý là có tới 92% người trẻ trong độ tuổi 18 – 30 tại các làng nghề truyền thống không có ý định theo đuổi nghề nghiệp của cha ông. Con số này cho thấy một khoảng cách đáng báo động giữa chính sách bảo tồn trên giấy tờ và thực tiễn sống của văn hóa bản địa. Chúng tôi có thể trùng tu đình làng, tổ chức lễ hội theo đúng nghi thức cổ, nhưng không thể buộc người trẻ ở lại khi họ không tìm thấy sinh kế và ý nghĩa trong đó, ông Trần Văn Hiếu, trưởng thôn Phú Hải (Quảng Nam) chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn gần đây. Câu chuyện của ông phản ánh một thực tế phổ biến: làng quê đang dần trở thành bảo tàng sống – được bảo tồn về mặt kiến trúc và hình thức, nhưng thiếu vắng sức sống nội tại và sự kết nối thực sự với người dân đương đại.

Những nỗ lực bảo tồn hiện nay thường thiên về khía cạnh vật thể và hình thức, trong khi bỏ qua yếu tố quan trọng nhất: bối cảnh xã hội và kinh tế mà trong đó di sản có thể tồn tại bền vững. Hệ quả là chúng ta chứng kiến hiện tượng bảo tồn phân mảnh – bảo tồn từng yếu tố riêng lẻ mà không nhìn nhận văn hóa như một hệ thống sống động và toàn diện. Ở làng gốm Bát Tràng, những kỹ thuật làm gốm cổ được ghi chép tỉ mỉ, nhưng sản phẩm gốm truyền thống không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Ở làng dệt Vạn Phúc, những tấm lụa được trưng bày trong các phòng trưng bày, nhưng người dệt trẻ đã chọn con đường di cư để tìm kiếm cơ hội việc làm ở các khu công nghiệp. Theo nhà nhân học văn hóa Nguyễn Văn Huyên: Bảo tồn không thể chỉ là việc lưu giữ hiện vật hay tái hiện nghi thức. Nó phải bao gồm cả việc tạo ra không gian sống cho văn hóa đó trong đời sống đương đại. Thiếu sự kết nối này, mọi nỗ lực bảo tồn chỉ là việc ướp xác một nền văn hóa đã tàn.

Làng quê không thể sống nếu chỉ được nhìn lại

Buổi chiều xuống chậm trên làng cổ Đường Lâm, những ngôi nhà gỗ cổ kính phủ rêu phong nằm im lìm dưới nắng vàng nhạt. Du khách ra về sau một ngày tham quan, để lại không gian tĩnh lặng đến não nề. Ông Nguyễn Văn Cường, 72 tuổi, chủ một ngôi nhà cổ được công nhận di tích, ngồi trên chiếc ghế tre trước sân, nhìn theo bóng người xa dần: Làng tôi giờ như một viện bảo tàng sống. Người ta đến, chụp ảnh, trầm trồ về quá khứ rồi đi. Nhưng chúng tôi không thể sống bằng những cái nhìn ngưỡng mộ ấy. Câu chuyện của ông Cường phản ánh một thực trạng đáng buồn của nhiều làng quê truyền thống ở Việt Nam hiện nay – nơi văn hóa bản địa chỉ được nhìn lại như một ký ức đẹp của quá khứ mà không được tái sinh trong dòng chảy cuộc sống đương đại. Trong khi chính sách bảo tồn tập trung vào việc giữ gìn kiến trúc cổ, phục dựng lễ hội theo nghi thức truyền thống, thì những vấn đề cốt lõi như sinh kế bền vững, cơ hội phát triển cho người trẻ, và khả năng thích ứng của văn hóa truyền thống với đời sống hiện đại lại thường bị bỏ ngỏ.

Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch Bền vững năm 2023, trong số 150 làng nghề truyền thống được công nhận là điểm du lịch văn hóa, chỉ có 23% thực sự có khả năng tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Phần lớn các làng nghề này đang rơi vào tình trạng tồn tại để trưng bày – nơi người dân địa phương phải sống như những hiện vật sống để phục vụ du khách, trong khi thu nhập thực sự từ hoạt động này không đủ để duy trì cuộc sống và giữ chân thế hệ trẻ. Tại làng gốm Phù Lãng (Bắc Ninh), số lượng lò gốm hoạt động đã giảm từ 170 lò vào năm 2000 xuống còn 45 lò vào năm 2023. Lý do chính không phải là thiếu các chính sách bảo tồn mà là thiếu sự kết nối giữa hoạt động sản xuất truyền thống với thị trường đương đại và thiếu những mô hình kinh doanh bền vững. Chúng tôi được khuyến khích giữ nguyên kỹ thuật làm gốm cổ truyền, nhưng không ai hướng dẫn cách đưa những sản phẩm ấy vào đời sống hiện đại, làm sao để người trẻ thấy được giá trị và tương lai trong nghề này, nghệ nhân gốm Nguyễn Văn Thành tâm sự.

Tương tự, tại làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp (Ninh Thuận), mặc dù đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nhưng số người trẻ dân tộc Chăm theo đuổi nghề dệt truyền thống chỉ còn chưa đầy 5% so với thế hệ trước. Cô Thị Mỹ, 28 tuổi, con gái của một nghệ nhân dệt thổ cẩm nổi tiếng, đã chọn làm công nhân may ở khu công nghiệp thay vì kế tục nghề gia truyền: Tôi tự hào về văn hóa dân tộc mình, nhưng tôi không thấy tương lai trong việc ngồi dệt vải thổ cẩm cả ngày để bán cho du khách với giá rẻ mạt. Đó là công việc của quá khứ, không phải của thời đại này. Những chia sẻ như vậy cho thấy mô hình bảo tồn nhìn lại đang tạo ra một nghịch lý: càng cố gắng giữ nguyên trạng văn hóa truyền thống như một hiện vật bảo tàng, chúng ta càng đẩy nhanh quá trình mai một của nó, bởi nó mất đi khả năng thích ứng và phát triển trong môi trường xã hội mới. Như nhà nghiên cứu văn hóa Phạm Xuân Nam đã nhận định: Văn hóa sống không phải là thứ được bảo quản trong formol. Nó cần không gian để thở, để chuyển động và biến đổi. Chúng ta không cần một bảo tàng sống, mà cần một cộng đồng sống với văn hóa.

Mô hình tĩnh và nguy cơ tạo ra văn hóa trình diễn

Trong một buổi biểu diễn nhạc nghi lễ cổ truyền tại làng Quan Họ Bắc Ninh, các nghệ nhân cao tuổi cất tiếng hát những điệu quan họ ngọt ngào trước sự chứng kiến của đoàn khách du lịch. Sau khi tiếng vỗ tay lắng xuống và đoàn khách rời đi, bà Nguyễn Thị Lụa, 78 tuổi, thở dài: Ngày xưa, quan họ là tiếng lòng, là cách chúng tôi kết nối với nhau trong cộng đồng. Bây giờ, nó trở thành màn trình diễn cho người lạ xem. Câu chuyện của bà Lụa phản ánh một thực tế đáng lo ngại: mô hình bảo tồn tĩnh đang dần biến văn hóa bản địa thành văn hóa trình diễn – nơi các yếu tố văn hóa truyền thống không còn là một phần tự nhiên của đời sống cộng đồng mà trở thành sản phẩm được dàn dựng phục vụ cho mục đích thương mại và du lịch. Theo nghiên cứu của Giáo sư, Tiến sĩ Tô Ngọc Thanh, chuyên gia văn hóa dân gian: Khi văn hóa trở thành sản phẩm trình diễn, nó mất đi tính chân thực và ý nghĩa nội tại. Người dân địa phương không còn cảm thấy đó là văn hóa của mình mà là thứ họ phải biểu diễn để đáp ứng kỳ vọng của người ngoài.

nhavantuonglai

Tại nhiều làng văn hóa du lịch, chúng ta chứng kiến hiện tượng dàn dựng tính xác thực (staged authenticity) – nơi các yếu tố văn hóa được trình diễn theo cách mà du khách mong đợi thấy, chứ không phải theo cách chúng thực sự diễn ra trong đời sống cộng đồng. Ở Sapa, những buổi múa truyền thống của người HMông được rút ngắn, đơn giản hóa và thêm thắt yếu tố mới để phù hợp với thị hiếu du khách. Tại Hội An, nhiều nghi lễ gia đình truyền thống giờ được biểu diễn thường xuyên cho du khách xem, khiến chúng mất đi tính thiêng liêng và ý nghĩa văn hóa sâu sắc. Theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Văn hóa Dân gian với 500 người dân tại các điểm du lịch văn hóa trọng điểm, có tới 67% người được hỏi thừa nhận rằng nhiều yếu tố văn hóa truyền thống đã được thay đổi hoặc đơn giản hóa để phục vụ du khách, và 58% cảm thấy không còn nhận ra văn hóa của chính mình trong những sản phẩm văn hóa được trình diễn.

Hiện tượng này tạo ra một nghịch lý sâu sắc: càng cố gắng bảo tồntrình diễn văn hóa theo mô hình tĩnh, chúng ta càng đẩy nhanh quá trình biến đổi và mất gốc của nó. Ông Nguyễn Văn Hòa, nghiên cứu viên tại Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, nhận xét: Văn hóa trình diễn tạo ra một vòng luẩn quẩn nguy hiểm. Người dân trình diễn văn hóa của mình theo cách người ngoài mong đợi. Dần dần, họ cũng bắt đầu nhìn văn hóa của mình qua lăng kính của người ngoài và không còn nhận ra được bản chất thực sự của nó. Đến một lúc nào đó, họ trở thành khán giả của chính văn hóa mình. Thực tế này đặt ra thách thức lớn cho công cuộc bảo tồn văn hóa: làm sao để giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống mà không biến chúng thành hiện vật sống hay sản phẩm trình diễn; làm sao để văn hóa bản địa có thể sống và phát triển trong bối cảnh đương đại mà không mất đi bản sắc cốt lõi của mình.

Làm mới ký ức – Để người trẻ tìm lại bản sắc

Trong thời đại của biến đổi xã hội nhanh chóng và di cư đô thị hóa mạnh mẽ, việc làm mới ký ức văn hóa trở thành con đường quan trọng để khôi phục mối liên kết giữa con người hiện đại với cội nguồn bản sắc. Ký ức không chỉ cần được bảo tồn mà còn phải được tái định nghĩa, tái diễn giải để có thể nói chuyện với người trẻ bằng ngôn ngữ của thời đại mới. Quá trình này đòi hỏi sự sáng tạo trong giáo dục di sản, sử dụng công nghệ truyền thông đa nền tảng, và tạo ra những không gian tương tác mới nơi người trẻ có thể chủ động khám phá và định hình lại ký ức văn hóa theo cách riêng của họ.

Giáo dục di sản trong trường học và cộng đồng

Trong lớp học của cô giáo Lê Thị Minh Hiền tại Trường THCS Mỹ Đức (Hà Nội), các em học sinh đang say sưa thực hành nghệ thuật nặn tò he truyền thống. Không chỉ học về kỹ thuật, các em còn được tìm hiểu về ý nghĩa văn hóa, nguồn gốc lịch sử và câu chuyện đằng sau mỗi nhân vật tò he. Chúng tôi không dạy di sản như một môn học lịch sử khô khan, mà là một trải nghiệm sống động kết nối các em với nguồn cội, cô Hiền chia sẻ. Mô hình giáo dục di sản tích hợp này đã tạo ra sự khác biệt lớn trong nhận thức của học sinh về văn hóa truyền thống. Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu giáo dục văn hóa tại Đại học Sư phạm Hà Nội, học sinh tham gia vào các chương trình giáo dục di sản trải nghiệm có tỷ lệ quan tâm đến văn hóa truyền thống cao hơn 72% so với nhóm chỉ học di sản qua sách giáo khoa. Điều này cho thấy tiềm năng to lớn của việc đổi mới phương pháp giáo dục di sản để giúp thế hệ trẻ tái kết nối với bản sắc văn hóa.

Mô hình Trường học gắn với di sản được triển khai tại 35 trường học ở các tỉnh miền Bắc từ năm 2020 đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Trong mô hình này, các trường học không chỉ đưa kiến thức về di sản vào chương trình giảng dạy mà còn tạo ra những không gian trải nghiệm di sản ngay trong khuôn viên trường. Tại Trường THCS Yên Sở (Hà Nội), một góc sân trường được thiết kế thành không gian trưng bày di sản làng nghề đúc đồng, nơi học sinh có thể tương tác, thực hành và tìm hiểu về nghề truyền thống của địa phương mình. Ban đầu, tôi nghĩ nghề đúc đồng của làng mình là thứ cổ lỗ không liên quan gì đến cuộc sống hiện đại. Nhưng qua dự án của trường, tôi phát hiện ra những giá trị nghệ thuật và kỹ thuật đáng kinh ngạc trong mỗi sản phẩm. Giờ tôi tự hào khi nói về nghề truyền thống của quê hương mình, Nguyễn Minh Quân, học sinh lớp 9, chia sẻ. Câu chuyện của Quân phản ánh sự thay đổi nhận thức quan trọng khi giáo dục di sản được tiếp cận một cách sáng tạo và gắn với trải nghiệm thực tế.

nhavantuonglai

Ngoài trường học, các không gian giáo dục di sản cộng đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc làm mới ký ức văn hóa. Tại làng gốm Bát Tràng, Trung tâm Giáo dục Di sản Gốm Sứ đã phát triển các chương trình Nghệ nhân trẻ nhằm truyền dạy kỹ năng làm gốm cho người trẻ trong làng và du khách. Đặc biệt, trung tâm không chỉ tập trung vào việc bảo tồn các kỹ thuật cổ truyền mà còn khuyến khích học viên sáng tạo và phát triển những ứng dụng mới của gốm sứ trong đời sống đương đại. Chúng tôi muốn các em hiểu rằng làm gốm không chỉ là nghề của quá khứ mà còn là một ngành sáng tạo đầy tiềm năng trong tương lai, ông Nguyễn Đức Tâm, giám đốc trung tâm cho biết. Nhờ phương pháp tiếp cận này, số lượng người trẻ quan tâm đến nghề gốm tại Bát Tràng đã tăng 36% trong 3 năm qua, với nhiều người trong số họ đã phát triển các dòng sản phẩm gốm sứ hiện đại được ưa chuộng trên thị trường trong và ngoài nước.

Truyền thông kể chuyện quê hương – Podcast, phim tài liệu, mạng xã hội và nhiều thứ khác

Trong căn phòng nhỏ tại Hà Nội, Nguyễn Minh Tú, 27 tuổi, đang miệt mài hoàn thiện tập podcast mới nhất trong series Tiếng vọng làng quê của mình. Qua micro, cô lồng ghép giọng kể chuyện sôi nổi với những đoạn phỏng vấn nghệ nhân làng nghề, tiếng nhạc dân gian, và âm thanh đời sống làng quê. Tôi muốn kể về làng quê không phải như một bức tranh hoài niệm xa xôi, mà như một phần của đời sống đương đại – với những khó khăn, niềm vui, và sự sáng tạo, Tú chia sẻ. Podcast của cô đã thu hút hơn 50.000 lượt nghe mỗi tập, phần lớn là từ người trẻ sống ở thành thị. Điều bất ngờ là tôi nhận được rất nhiều phản hồi từ bạn trẻ nói rằng nhờ podcast mà họ lần đầu tiên cảm thấy văn hóa làng quê không còn xa lạ và cổ hủ như họ từng nghĩ. Hiện tượng này phản ánh sức mạnh của truyền thông kể chuyện hiện đại trong việc làm mới ký ức văn hóa và giúp người trẻ tái kết nối với bản sắc quê hương. Theo nghiên cứu của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, các nền tảng truyền thông số như podcast, video ngắn và phim tài liệu trên mạng xã hội đang trở thành kênh truyền tải văn hóa truyền thống hiệu quả nhất đến với thế hệ Z, với 67% người trẻ được khảo sát cho biết họ biết đến và quan tâm đến văn hóa truyền thống thông qua các nền tảng này.

nhavantuonglai

Hiện tượng đáng chú ý khác là sự phát triển của các kênh YouTube và series phim tài liệu chuyên về văn hóa và ẩm thực địa phương. Kênh Hành trình bản sắc của đạo diễn trẻ Hoàng Minh với những tập phim tài liệu ngắn khám phá văn hóa các vùng miền đã thu hút hơn 2 triệu lượt đăng ký theo dõi. Điểm đặc biệt trong phương pháp làm phim của Hoàng Minh là góc nhìn trẻ trung, hiện đại nhưng đầy tôn trọng đối với văn hóa truyền thống. Chúng tôi không tạo ra những bộ phim tài liệu kiểu cũ, tràn ngập thông tin lịch sử khô khan. Thay vào đó, chúng tôi kể câu chuyện qua góc nhìn của một người trẻ khám phá bản sắc của chính mình, Hoàng Minh chia sẻ. Series Hành trình về nguồn của anh không chỉ ghi lại những nghi lễ, phong tục truyền thống mà còn khám phá cách chúng được sáng tạo lại trong bối cảnh đương đại. Một tập phim về nghề dệt thổ cẩm của người Thái ở Sơn La không chỉ tập trung vào kỹ thuật dệt cổ truyền mà còn theo chân những nhà thiết kế trẻ người Thái đang tái hiện họa tiết thổ cẩm trong thời trang hiện đại, tạo ra sinh kế mới cho cộng đồng.

Mạng xã hội cũng đang trở thành nền tảng quan trọng cho việc tái kết nối thế hệ trẻ với văn hóa bản địa. Trên TikTok, hashtag #vanhoaviet đã thu hút hơn 2 tỷ lượt xem, với những video ngắn giới thiệu từ ẩm thực địa phương đến nghệ thuật dân gian, từ lễ hội truyền thống đến làng nghề cổ. Đặc biệt, phong trào Gen Z khám phá bản sắc trên các nền tảng mạng xã hội đã tạo ra một làn sóng người trẻ chủ động tìm về cội nguồn. Lê Thị Thảo, 23 tuổi, một người sáng tạo nội dung về văn hóa truyền thống trên TikTok với hơn 500.000 người theo dõi, chia sẻ: Ban đầu tôi chỉ làm video về cách nấu các món ăn quê nhà tôi ở Quảng Nam. Nhưng dần dần, tôi nhận ra rằng mỗi món ăn đều mang theo câu chuyện về lịch sử, phong tục và con người nơi đó. Vì vậy, tôi bắt đầu lồng ghép những câu chuyện này vào nội dung của mình. Series Hương vị ký ức của Thảo không chỉ hướng dẫn cách nấu các món ăn truyền thống mà còn kể về nguồn gốc, ý nghĩa văn hóa và những ký ức gắn liền với mỗi món ăn, tạo nên một cầu nối văn hóa giữa các thế hệ.

Một hình thức truyền thông kể chuyện đặc biệt hiệu quả khác là dự án Di sản sống do nhóm sinh viên Đại học Văn hóa Hà Nội khởi xướng. Dự án này kết hợp nhiều phương tiện truyền thông – từ podcast, phim tài liệu ngắn đến triển lãm trực tuyến – để kể câu chuyện về các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam. Điểm đặc biệt của dự án là cách tiếp cận đa góc nhìn – mỗi di sản được kể qua nhiều lăng kính khác nhau: từ góc nhìn của nghệ nhân già, người kế nghiệp trẻ, nhà nghiên cứu, và cả người tiêu dùng hiện đại. Chúng tôi tin rằng mỗi di sản đều có nhiều câu chuyện khác nhau, và chỉ khi kể được đầy đủ các câu chuyện đó, chúng ta mới có thể hiểu được giá trị thực sự của nó trong đời sống đương đại, Nguyễn Thành Trung, điều phối viên dự án giải thích. Cách tiếp cận này đã giúp thu hút sự quan tâm của đông đảo người trẻ, đặc biệt là sinh viên và thanh niên thành thị, nhiều người trong số họ đã trở thành tình nguyện viên tham gia vào các hoạt động bảo tồn và phát huy di sản sau khi theo dõi dự án.

Tái hiện văn hóa qua các hình thức sáng tạo đương đại

Trên sân khấu của Nhà hát Lớn Hà Nội, vở múa đương đại Hồn Làng đang diễn ra với những động tác vừa mang hơi thở truyền thống vừa mang tính sáng tạo hiện đại. Vũ công Ngọc Anh, 30 tuổi, cựu du học sinh ngành múa tại Pháp, đã phối hợp những động tác từ múa dân gian Việt Nam với kỹ thuật múa đương đại phương Tây để kể lại câu chuyện về sự biến đổi của làng quê Việt Nam trong thời đại di cư và đô thị hóa. Múa không chỉ là hình thức biểu diễn mà còn là ngôn ngữ để tôi tái kết nối với ký ức văn hóa của mình, Ngọc Anh chia sẻ sau buổi diễn. Khán phòng chật kín với đa số là khán giả trẻ – nhiều người lần đầu tiên tìm đến một buổi biểu diễn nghệ thuật truyền thống. Tôi chưa bao giờ quan tâm đến múa dân gian vì nghĩ nó cổ hủ và nhàm chán. Nhưng vở múa này đã cho tôi thấy truyền thống có thể sống động và gây xúc động đến nhường nào khi được tái hiện qua một ngôn ngữ nghệ thuật đương đại, Minh Tuấn, một sinh viên đại học, chia sẻ sau khi xem buổi biểu diễn.

Hiện tượng tái hiện văn hóa qua các hình thức nghệ thuật sáng tạo đương đại đang trở thành một xu hướng nổi bật trong công cuộc làm mới ký ức văn hóa tại Việt Nam. Tại Festival Huế 2023, dự án âm nhạc Âm sắc đương đại đã tạo tiếng vang lớn khi kết hợp nhạc cung đình Huế với nhạc điện tử hiện đại. Các nhạc công trẻ chơi những nhạc cụ truyền thống như đàn bầu, đàn nguyệt cùng với DJ trong một buổi trình diễn đầy năng lượng, thu hút hơn 5.000 khán giả, phần lớn là người trẻ. Chúng tôi không muốn nhạc cung đình chỉ còn là hiện vật trong bảo tàng hay biểu diễn trong những không gian trang trọng, xa cách với đời sống thường ngày. Chúng tôi muốn đưa nó vào cuộc sống hiện đại, để người trẻ cảm thấy nó gần gũi và liên quan đến họ, nhạc sĩ Quang Linh, người sáng lập dự án, giải thích.

Trong lĩnh vực thời trang, phong trào Neo Heritage (Di sản mới) đang phát triển mạnh mẽ với những bộ sưu tập kết hợp giữa họa tiết, chất liệu truyền thống và thiết kế đương đại. Nhà thiết kế Thủy Nguyễn với thương hiệu Thủy Design House đã tạo nên làn sóng ảnh hưởng lớn khi đưa họa tiết tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống vào các thiết kế thời trang cao cấp, giúp những hình ảnh văn hóa truyền thống này tiếp cận với công chúng trẻ trong một ngữ cảnh mới. Khi một người trẻ mặc áo có họa tiết tranh dân gian Đông Hồ, họ không chỉ mặc một món đồ thời trang mà còn đang mang theo và lan tỏa một phần di sản văn hóa, Thủy Nguyễn nhận định. Thành công của phong trào này không chỉ đo đếm bằng doanh số bán hàng mà còn ở sự quan tâm ngày càng tăng của người trẻ đối với nguồn gốc và ý nghĩa của các yếu tố văn hóa truyền thống được sử dụng trong thời trang.

Công nghệ thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) cũng đang được ứng dụng sáng tạo trong việc tái hiện văn hóa. Dự án Làng Việt VR do Viện Công nghệ Thông tin và Truyền thông (PTIT) phát triển cho phép người dùng đắm mình trong không gian làng quê Việt Nam truyền thống thông qua kính thực tế ảo. Người sử dụng có thể tham gia vào các hoạt động như gặt lúa, dệt vải, làm gốm, hoặc tham dự một lễ hội truyền thống. Điều quan trọng là chúng tôi không chỉ tạo ra một bản sao số hóa của làng quê mà còn thiết kế các tương tác có ý nghĩa giúp người dùng hiểu được giá trị văn hóa và xã hội đằng sau mỗi hoạt động, Tiến sĩ Nguyễn Minh Đức, trưởng nhóm phát triển giải thích. Dự án đã được triển khai tại nhiều trường học và trung tâm văn hóa, trở thành công cụ giáo dục di sản hiệu quả cho thế hệ trẻ.

Ký ức có thể được số hóa, nhưng cần được sống lại

Trong thời đại số, việc chuyển đổi di sản văn hóa thành dạng dữ liệu kỹ thuật số đang mở ra những cơ hội chưa từng có để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, số hóa chỉ là bước đầu tiên trong hành trình làm sống lại ký ức văn hóa. Quá trình này đòi hỏi không chỉ công nghệ tiên tiến mà còn cần những mô hình kinh tế bền vững và sự tham gia sáng tạo của cộng đồng để đảm bảo di sản không chỉ được lưu trữ mà còn tiếp tục phát triển và tạo giá trị trong đời sống đương đại.

Công nghệ và di sản – Số hóa lễ hội, dân ca, phong tục

Trong phòng lưu trữ hiện đại của Trung tâm Bảo tồn Di sản Số Việt Nam, hàng nghìn giờ ghi âm dân ca, hàng trăm nghìn bức ảnh về lễ hội truyền thống, và vô số tài liệu ghi chép về phong tục tập quán đang được xử lý và lưu trữ bằng công nghệ tiên tiến. Tiến sĩ Phạm Minh Tú, Giám đốc trung tâm, đang kiểm tra quá trình hoàn thiện hệ thống thực tế ảo tái hiện lễ hội Gióng tại đền Sóc (Hà Nội). Việc số hóa di sản không chỉ là quá trình kỹ thuật mà còn là một sứ mệnh văn hóa. Chúng tôi không chỉ lưu giữ hình ảnh, âm thanh mà còn cố gắng nắm bắt tinh thần, cảm xúc và bối cảnh xã hội của mỗi di sản, ông Tú giải thích. Dự án số hóa di sản văn hóa phi vật thể quốc gia do trung tâm thực hiện từ năm 2020 đã ghi lại và lưu trữ hơn 200 lễ hội truyền thống, 150 làn điệu dân ca và 300 nghề thủ công truyền thống trên khắp Việt Nam. Đặc biệt, dự án không chỉ tập trung vào việc ghi hình, ghi âm các hoạt động văn hóa mà còn thu thập dữ liệu về ngữ cảnh xã hội, ý nghĩa văn hóa và những câu chuyện cá nhân liên quan đến mỗi di sản.

Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) cũng đang được ứng dụng sáng tạo trong việc phục dựng và phát triển di sản văn hóa. Tại Viện Nghiên cứu Ứng dụng Công nghệ trong Văn hóa, các nhà nghiên cứu đang sử dụng AI để phân tích và phục dựng những bản nhạc dân gian cổ đã bị thất truyền một phần. Dự án Trí tuệ dân gian sử dụng thuật toán học máy phân tích hàng nghìn bản nhạc dân gian để xác định các mẫu giai điệu, cấu trúc và đặc điểm âm nhạc đặc trưng của từng vùng miền, từ đó hỗ trợ việc phục dựng những đoạn đã mất hoặc biến thể của các làn điệu dân ca. Chúng tôi không sử dụng AI để thay thế sự sáng tạo của con người, mà để hỗ trợ các nghệ nhân và nhà nghiên cứu trong công cuộc bảo tồn di sản âm nhạc, Tiến sĩ Lê Hoàng Anh, trưởng nhóm nghiên cứu giải thích. Kết quả của dự án đã giúp phục dựng thành công hơn 50 biến thể của các làn điệu quan họ Bắc Ninh và hát xoan Phú Thọ đang có nguy cơ mai một.

nhavantuonglai

Ứng dụng di động Di sản trong tầm tay phát triển bởi nhóm sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội đã tạo ra một nền tảng tương tác cho phép người dùng khám phá di sản văn hóa thông qua công nghệ thực tế tăng cường (AR). Khi hướng camera điện thoại vào một di tích hoặc hiện vật văn hóa, ứng dụng sẽ hiển thị thông tin chi tiết, hình ảnh phục dựng 3D, và thậm chí tái hiện các hoạt động văn hóa liên quan. Điểm đặc biệt của ứng dụng là tính tương tác và cá nhân hóa. Người dùng không chỉ xem thông tin mà còn có thể đóng góp kiến thức, chia sẻ trải nghiệm và tham gia vào các hoạt động bảo tồn di sản, Nguyễn Thị Mai Anh, trưởng nhóm phát triển chia sẻ. Với hơn 100.000 lượt tải xuống sau 6 tháng ra mắt, ứng dụng đã chứng minh rằng công nghệ có thể là cầu nối hiệu quả giúp thế hệ trẻ tiếp cận di sản văn hóa một cách sống động và ý nghĩa.

Công nghệ và không gian giao lưu – Sống lại với ký ức qua sân khấu và lễ hội hiện đại

Chương trình biểu diễn Xưa và Nay tại Nhà hát Lớn Hà Nội đã tạo nên một không gian nghệ thuật đặc biệt, nơi các nghệ sĩ trẻ tái hiện những làn điệu dân ca, câu chuyện cổ tích và nghi lễ truyền thống thông qua ngôn ngữ nghệ thuật đương đại. Trên sân khấu, công nghệ ánh sáng, âm thanh và hình ảnh hiện đại được sử dụng khéo léo để tạo nên những khung cảnh sống động của làng quê Việt Nam xưa, trong khi các yếu tố nghệ thuật đương đại như múa đương đại, âm nhạc điện tử và kỹ thuật trình diễn hiện đại được hòa quyện với các yếu tố truyền thống, tạo nên một trải nghiệm nghệ thuật vừa quen thuộc vừa mới mẻ cho người xem.

Chúng tôi không muốn chỉ đơn thuần tái hiện quá khứ, mà muốn tạo ra một cuộc đối thoại giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và hiện đại, đạo diễn Hoàng Công Tú giải thích về tầm nhìn của chương trình. Khi một làn điệu quan họ cổ được thể hiện qua phong cách âm nhạc điện tử, khi một câu chuyện cổ tích được kể lại qua ngôn ngữ của kịch hiện đại – đó là lúc di sản không còn là thứ tĩnh tại trong quá khứ mà trở thành một phần sống động của đời sống văn hóa đương đại. Cách tiếp cận này đã thu hút được sự quan tâm của công chúng trẻ, những người vốn dĩ ít có cơ hội tiếp xúc với văn hóa truyền thống trong hình thái nguyên bản của nó. Sau khi xem chương trình, nhiều khán giả trẻ đã bày tỏ sự quan tâm sâu sắc hơn đối với văn hóa truyền thống và mong muốn tìm hiểu thêm về các dạng thức nghệ thuật dân gian.

Bên cạnh những không gian nghệ thuật chuyên nghiệp, việc tạo ra các không gian giao lưu văn hóa phi chính thức ở cấp cộng đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc làm sống lại ký ức văn hóa. Festival Làng tôi được được tổ chức hàng năm tại nhiều địa phương trên cả nước là một ví dụ điển hình. Đây không chỉ là dịp để trình diễn các loại hình nghệ thuật truyền thống mà còn là không gian để người dân địa phương và du khách cùng tham gia vào các hoạt động văn hóa, từ nấu các món ăn truyền thống đến thực hành các nghề thủ công dân gian. Tại festival năm 2024 ở Hà Giang, hơn 3.000 người thuộc mọi lứa tuổi đã cùng nhau tham gia vào việc dệt một tấm thảm khổng lồ theo phương pháp truyền thống của người Hmông, một dự án cộng đồng mang tính biểu tượng về sự kết nối và hợp tác liên thế hệ. Khi tay tôi cùng đan với tay cháu gái mình, khi chúng tôi cùng học và cùng làm, đó là lúc tôi cảm thấy văn hóa của chúng tôi thực sự còn sống, bà Mua Thị Sáng, một nghệ nhân dệt may 78 tuổi người Hmông chia sẻ.

Các lễ hội đương đại được tổ chức theo mô hình này đã thành công trong việc biến trải nghiệm văn hóa từ một hoạt động thụ động của người xem thành một quá trình tương tác tích cực, nơi ranh giới giữa người biểu diễn và khán giả được xóa nhòa. Tại lễ hội Mùa về ở Nam Định, du khách không chỉ được xem các nghệ nhân làm bánh truyền thống mà còn được học cách làm bánh, được nghe câu chuyện về nguồn gốc, ý nghĩa văn hóa của từng loại bánh và được thưởng thức thành quả cuối cùng. Quá trình tham gia này đã tạo ra những trải nghiệm đa giác quan sâu sắc, giúp người tham gia hiểu và cảm nhận văn hóa truyền thống một cách trọn vẹn hơn, không chỉ qua lời nói hay hình ảnh mà còn qua xúc giác, vị giác và mùi hương. Những trải nghiệm như vậy đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong tâm trí của người tham gia, đặc biệt là giới trẻ, và góp phần làm sống lại ký ức văn hóa theo những cách thức mới mẻ và có ý nghĩa.

Gắn ký ức với kinh tế – Du lịch cộng đồng, nông nghiệp bản địa

Khu du lịch cộng đồng Làng Lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) là một ví dụ điển hình về cách gắn kết bảo tồn di sản với phát triển kinh tế bền vững. Nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 10km, làng nghề dệt lụa truyền thống này từng đứng trước nguy cơ mai một khi các thế hệ trẻ trong làng lần lượt ra đi tìm việc ở các khu công nghiệp. Tuy nhiên, từ năm 2018, với sự hỗ trợ của chương trình phát triển du lịch cộng đồng của JICA (Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản), làng Vạn Phúc đã chuyển mình thành một điểm đến du lịch văn hóa hấp dẫn. Mô hình Nhà ở – Xưởng dệt – Cửa hàng cho phép du khách không chỉ tham quan mà còn trải nghiệm toàn bộ quy trình từ dệt lụa đến thiết kế và may trang phục. Ban đầu, chúng tôi lo ngại việc đón khách du lịch sẽ làm gián đoạn cuộc sống và sản xuất. Nhưng thực tế, du lịch đã trở thành động lực để chúng tôi duy trì và phát triển nghề truyền thống, ông Nguyễn Đức Mạnh, chủ một xưởng dệt lụa chia sẻ. Thu nhập từ du lịch chiếm khoảng 40% tổng thu nhập của các hộ gia đình tham gia chương trình, giúp nhiều người trẻ trong làng quyết định ở lại và kế tục nghề gia truyền.

Mô hình kinh tế dựa trên di sản không chỉ giới hạn trong phạm vi du lịch mà còn mở rộng sang lĩnh vực nông nghiệp bản địa. Tại huyện Bắc Hà (Lào Cai), dự án Hạt giống bản địa đã giúp phục hồi và phát triển các giống lúa đặc sản truyền thống của đồng bào dân tộc HMông như lúa Khẩu Dẩu Dím (lúa nếp hương), Khẩu Tả Hay (lúa tẻ đỏ). Không chỉ bảo tồn nguồn gen quý, dự án còn phát triển chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Các loại gạo bản địa của chúng tôi không chỉ là lương thực mà còn mang giá trị văn hóa và tinh thần. Chúng gắn liền với các nghi lễ, món ăn truyền thống và cả hệ thống kiến thức bản địa về canh tác, bà Vàng Thị Mỷ, điều phối viên dự án giải thích. Gạo đặc sản Bắc Hà hiện được bán với giá cao gấp 3 – 4 lần so với gạo thông thường trên thị trường, mang lại thu nhập ổn định cho hơn 500 hộ nông dân tham gia dự án. Đặc biệt, việc gắn canh tác lúa truyền thống với phát triển du lịch sinh thái đã tạo thêm nguồn thu nhập và cơ hội việc làm cho người dân địa phương.

nhavantuonglai

Làng nghề gốm Thanh Hà (Hội An) là một ví dụ khác về cách kết hợp hiệu quả giữa bảo tồn di sản và phát triển kinh tế. Thay vì chỉ tập trung vào việc sản xuất các sản phẩm gốm truyền thống, cộng đồng làng nghề đã phát triển mô hình Không gian sáng tạo gốm nơi du khách có thể trải nghiệm làm gốm, học về lịch sử và văn hóa gốm Thanh Hà. Hợp tác với các trường đại học và nhà thiết kế, làng nghề còn phát triển các dòng sản phẩm gốm hiện đại phục vụ thị trường cao cấp trong và ngoài nước. Chúng tôi không chỉ bán sản phẩm gốm mà còn bán trải nghiệm văn hóa và sự sáng tạo. Điều này giúp nghề gốm trở nên hấp dẫn với thế hệ trẻ hơn, anh Lê Thanh Hưng, một nghệ nhân gốm trẻ cho biết. Mô hình này đã giúp thu hút 35 người trẻ (dưới 35 tuổi) quay về làng nghề sau nhiều năm đi làm ăn xa, góp phần quan trọng vào việc duy trì và phát triển nghề truyền thống.

Tạo sinh kế bền vững từ trí tuệ bản địa

Tại bản Tả Van Chư (Sa Pa, Lào Cai), những người phụ nữ HMông không còn phải bán đồ thổ cẩm với giá rẻ mạt cho du khách. Thay vào đó, họ đang làm việc trong một xưởng dệt hiện đại, tạo ra những sản phẩm thời trang cao cấp mang họa tiết truyền thống được xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới. Dự án Sắc Màu HMông do Tô Thị Mai, một nhà thiết kế thời trang người Việt gốc HMông sáng lập, đã tạo ra một mô hình kinh doanh bền vững dựa trên kỹ thuật dệt và thêu truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Chúng tôi không chỉ sử dụng họa tiết thổ cẩm mà còn kết hợp toàn bộ triết lý, câu chuyện và kỹ thuật truyền thống vào quá trình sáng tạo, Mai chia sẻ. Mỗi sản phẩm đều đi kèm với thông tin về nguồn gốc văn hóa, ý nghĩa của các biểu tượng, và câu chuyện của người thợ tạo ra nó. Hiện dự án đang tạo việc làm ổn định cho hơn 100 phụ nữ dân tộc thiểu số với mức thu nhập cao gấp 3 lần so với làm nông nghiệp truyền thống, đồng thời góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát triển kỹ thuật dệt thổ cẩm.

Mô hình kinh tế dựa trên tri thức bản địa cũng được phát triển thành công trong lĩnh vực dược liệu. Tại Điện Biên, Hợp tác xã Dược liệu Tủa Chùa đã kết hợp kiến thức y học cổ truyền của đồng bào Thái, Mông với nghiên cứu khoa học hiện đại để phát triển các sản phẩm chăm sóc sức khỏe từ thảo dược địa phương. Người già trong bản biết rất rõ đặc tính của hàng trăm loại cây thuốc quý trên núi. Tri thức này đang dần mất đi khi thế hệ trẻ không còn quan tâm. Chúng tôi đã tìm cách biến nó thành nguồn sinh kế bền vững, ông Lò Văn Phong, chủ tịch hợp tác xã giải thích. Hiện hợp tác xã đang tạo việc làm cho 65 hộ gia đình, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, từ khâu trồng trọt, thu hái đến chế biến dược liệu. Đặc biệt, dự án còn tạo ra chương trình Già làng – Thầy thuốc khuyến khích các thầy thuốc cao tuổi truyền dạy kiến thức y học cổ truyền cho thế hệ trẻ, tạo nên một chuỗi truyền thừa tri thức bản địa bền vững.

Tại miền Trung, dự án Rừng và biển đang áp dụng mô hình kinh tế dựa trên tri thức truyền thống về quản lý tài nguyên rừng và biển của đồng bào Chăm và Raglai. Thay vì áp đặt các mô hình quản lý hiện đại, dự án tập trung vào việc phục hồi và phát huy hệ thống Gươl – cơ chế quản lý tài nguyên cộng đồng truyền thống của người Chăm. Hệ thống Gươl không chỉ là một mô hình quản lý tài nguyên mà còn là một thể chế xã hội phức tạp với những quy tắc, nghi lễ và cấu trúc quản trị riêng, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng, chuyên gia tham vấn dự án giải thích. Việc phục hồi hệ thống này không chỉ giúp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên mà còn tạo ra các cơ hội sinh kế mới như du lịch sinh thái cộng đồng, sản xuất thủy sản bền vững, và chế biến các sản phẩm lâm nghiệp ngoài gỗ. Kết quả là thu nhập bình quân của các hộ gia đình tham gia dự án đã tăng 32% sau 3 năm, đồng thời diện tích rừng được bảo vệ hiệu quả tăng 28%.

Không gian số và nền tảng xã hội – Đưa bản sắc lên mạng lưới toàn cầu

Trong kỷ nguyên kỹ thuật số, mạng xã hội và nền tảng trực tuyến đã trở thành những công cụ mạnh mẽ để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa. Nhóm Tiếng nói từ bản trên Facebook, với hơn 100.000 thành viên tích cực, đã tạo ra một diễn đàn trực tuyến nơi những người trẻ tuổi từ các cộng đồng dân tộc thiểu số có thể chia sẻ câu chuyện, hình ảnh và kiến thức về văn hóa của họ. Thông qua nền tảng này, nhiều câu chuyện về phong tục, lễ nghi và cuộc sống hàng ngày đã được lưu trữ và lan truyền rộng rãi, vượt xa giới hạn địa lý của các cộng đồng gốc. Trước đây, tôi ngại nói về nguồn gốc dân tộc của mình, nhưng khi tôi thấy có nhiều người trẻ tự hào chia sẻ về văn hóa của họ trên mạng xã hội, tôi cũng cảm thấy tự tin hơn về bản sắc của mình, Sơn Thị Hà, một sinh viên người Thái đến từ Điện Biên, bày tỏ.

nhavantuonglai

Các ứng dụng di động chuyên biệt như DiSan+ cũng đã được phát triển để cung cấp thông tin toàn diện về di sản văn hóa Việt Nam, từ di tích lịch sử đến các loại hình nghệ thuật truyền thống và ẩm thực địa phương. Ứng dụng này không chỉ cung cấp thông tin mà còn cho phép người dùng đóng góp nội dung, chia sẻ trải nghiệm và kết nối với những người có cùng sở thích. Tính năng bản đồ tương tác của ứng dụng giúp người dùng dễ dàng tìm thấy các địa điểm văn hóa gần họ, trong khi tính năng thực tế ảo tăng cường (AR) cho phép họ trải nghiệm các di tích lịch sử và không gian văn hóa theo những cách thức mới mẻ. Chúng tôi muốn tạo ra một công cụ không chỉ để bảo tồn di sản mà còn để làm cho di sản trở nên sống động và dễ tiếp cận đối với thế hệ trẻ, Nguyễn Thanh Tùng, nhà phát triển ứng dụng DiSan+ giải thích về tầm nhìn của dự án.

Các kênh YouTube và podcast tập trung vào văn hóa truyền thống cũng đang thu hút số lượng lớn người xem và người nghe, đặc biệt là trong giới trẻ. Kênh YouTube Nguồn cội với các video tài liệu ngắn về các làng nghề truyền thống, lễ hội dân gian và các nghệ nhân dân gian đã thu hút hơn 500.000 người đăng ký theo dõi chỉ trong vòng hai năm. Podcast Nghe làng kể chuyện với những cuộc phỏng vấn sâu sắc với người cao tuổi ở các làng quê Việt Nam cũng đã trở thành một trong những podcast được nghe nhiều nhất trên các nền tảng phát trực tuyến ở Việt Nam. Điều làm tôi ngạc nhiên là có rất nhiều người trẻ tuổi ở thành phố quan tâm đến những câu chuyện về làng quê và truyền thống. Họ không chỉ nghe mà còn tích cực bình luận và đặt câu hỏi, Lê Minh Hằng, người sáng lập podcast chia sẻ. Hiện tượng này cho thấy một nhu cầu ngày càng tăng trong giới trẻ về việc kết nối với nguồn cội và tìm hiểu về bản sắc văn hóa của họ.

Kiến tạo giá trị ký ức – Từ văn hóa sống đến phát triển bền vững

Việc gắn kết ký ức văn hóa với phát triển bền vững là một chiến lược quan trọng để đảm bảo rằng di sản không chỉ được bảo tồn mà còn đóng góp vào sự phát triển lâu dài của cộng đồng. Chương trình Di sản và Phát triển của UNESCO tại Việt Nam đã hỗ trợ nhiều cộng đồng trong việc phát triển các dự án văn hóa – sinh thái, nơi kiến thức truyền thống về quản lý tài nguyên thiên nhiên được kết hợp với các phương pháp hiện đại để tạo ra các mô hình phát triển bền vững. Tại Vườn quốc gia Cúc Phương, người dân tộc Mường đã áp dụng kiến thức truyền thống của họ về cây thuốc và thảo dược để phát triển một vườn thảo mộc cộng đồng, nơi họ trồng và chế biến các loại thảo dược theo phương pháp truyền thống để sản xuất các sản phẩm chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp tự nhiên. Kiến thức về cây thuốc đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cộng đồng của chúng tôi, nhưng trước đây chúng tôi chỉ sử dụng nó cho nhu cầu của bản thân. Giờ đây, chúng tôi đã học cách biến nó thành một nguồn thu nhập, bà Đinh Thị Lan, thành viên của Hợp tác xã Thảo dược Mường Xanh cho biết.

Những lễ hội và sự kiện văn hóa cũng đang được tái định vị như những sự kiện có giá trị kinh tế, thu hút du khách và tạo ra cơ hội kinh doanh cho người dân địa phương. Festival Huế, một lễ hội văn hóa lớn được tổ chức hai năm một lần tại cố đô Huế, đã phát triển từ một sự kiện văn hóa thuần túy thành một sự kiện du lịch – văn hóa lớn, thu hút hàng trăm nghìn du khách trong và ngoài nước và tạo ra doanh thu hàng trăm tỷ đồng cho nền kinh tế địa phương. Lễ hội không chỉ bao gồm các buổi biểu diễn văn hóa truyền thống mà còn có các phiên chợ đêm, triển lãm nghệ thuật, tour du lịch văn hóa và nhiều hoạt động khác, tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp địa phương giới thiệu và bán sản phẩm và dịch vụ của họ. Festival Huế đã trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế của thành phố, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch và dịch vụ, ông Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế nhận xét. Điều quan trọng là lễ hội đã thành công trong việc cân bằng giữa việc duy trì tính xác thực văn hóa và đáp ứng nhu cầu của du khách hiện đại.

Việc gắn kết ký ức văn hóa với phát triển kinh tế còn thể hiện qua việc phát triển các thương hiệu địa phương dựa trên di sản văn hóa độc đáo của từng vùng miền. Tỉnh Ninh Bình đã xây dựng thương hiệu Ninh Bình – Quê hương di sản dựa trên sự kết hợp giữa di sản thiên nhiên (Tràng An, Tam Cốc – Bích Động) và di sản văn hóa (cố đô Hoa Lư, nhạc cụ dân tộc, ẩm thực truyền thống). Thương hiệu này đã được sử dụng để quảng bá du lịch, thu hút đầu tư và định vị các sản phẩm đặc sản của địa phương trên thị trường quốc gia và quốc tế. Chúng tôi nhận ra rằng di sản văn hóa và thiên nhiên không chỉ là thứ cần được bảo vệ mà còn là tài sản có giá trị có thể được sử dụng để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, ông Bùi Văn Mạnh, Giám đốc Sở Du lịch tỉnh Ninh Bình giải thích. Thông qua việc xây dựng thương hiệu dựa trên di sản, chúng tôi không chỉ thu hút du khách và đầu tư mà còn tạo ra niềm tự hào về bản sắc văn hóa trong cộng đồng địa phương, đặc biệt là giới trẻ.

Kết nối thế hệ – Giữ lại sợi dây xuyên thời gian

Trong bối cảnh di cư và đô thị hóa mạnh mẽ, khoảng cách giữa các thế hệ không chỉ là khoảng cách về không gian địa lý mà còn là khoảng cách về nhận thức và giá trị văn hóa. Việc tái lập những kết nối liên thế hệ trở thành yếu tố then chốt trong công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Quá trình này đòi hỏi sự tôn trọng và lắng nghe lẫn nhau, cũng như việc tạo ra những không gian gặp gỡ – cả vật lý lẫn tinh thần – nơi các thế hệ có thể chia sẻ và học hỏi từ nhau.

Người kể chuyện và người tiếp nhận – Tạo không gian gặp gỡ liên thế hệ

Trong không gian ấm cúng của Nhà Văn hóa làng Đường Lâm, cụ Nguyễn Văn Hiền, 92 tuổi, đang say sưa kể về lễ hội Đình làng thời thanh xuân của mình cho một nhóm sinh viên đại học và học sinh trung học. Các em không chỉ lắng nghe mà còn ghi âm, quay phim và đặt nhiều câu hỏi sâu sắc. Đây là một buổi sinh hoạt trong khuôn khổ dự án Cầu nối ký ức do Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa khởi xướng, nhằm tạo ra không gian gặp gỡ thực sự giữa các thế hệ, nơi những người già có cơ hội chia sẻ kiến thức, kỹ năng và trải nghiệm của họ cho thế hệ trẻ.

Ngày trước, cứ đến dịp lễ hội Đình làng là cả làng như sống trong không khí hội hè đặc biệt. Từ việc chuẩn bị lễ vật, trang hoàng đình, đến những nghi thức tế lễ, rước kiệu và các trò chơi dân gian đều được chuẩn bị kỹ lưỡng, cụ Hiền kể, giọng đầy xúc động. Mỗi người dân trong làng đều có vai trò riêng. Người già thì lo phần nghi lễ, đàn ông tráng niên thì khiêng kiệu, phụ nữ chuẩn bị cỗ bàn, còn trẻ con như bọn tôi thời đó thì phụ việc vặt và háo hức chờ đến phần hội với các trò chơi dân gian. Khi nghe cụ Hiền mô tả chi tiết các nghi thức, nhiều học sinh trung học trông có vẻ ngạc nhiên, họ chưa từng được chứng kiến một lễ hội truyền thống đầy đủ như vậy. Đối với các em, lễ hội làng quê chỉ còn là một khái niệm trừu tượng trong sách giáo khoa hoặc những đoạn phim tài liệu ngắn.

nhavantuonglai

Dự án Cầu nối ký ức không dừng lại ở việc tạo ra các buổi gặp gỡ đơn thuần giữa người già và người trẻ. Nó còn xây dựng một cấu trúc có hệ thống cho việc truyền dạy và tiếp nhận di sản văn hóa phi vật thể. Sau mỗi buổi gặp gỡ, các em học sinh sẽ tổng hợp kiến thức đã thu thập được thành các sản phẩm sáng tạo: bài viết, phóng sự ngắn, podcast, thậm chí là các video hướng dẫn thực hành các kỹ năng truyền thống. Những sản phẩm này sau đó được chia sẻ trên nền tảng trực tuyến của dự án, tạo thành một thư viện sống về văn hóa bản địa, có thể tiếp cận bởi bất cứ ai quan tâm. Ban đầu, chúng tôi lo ngại rằng các em sẽ không hứng thú với những câu chuyện xưa cũ, chị Phương Anh, điều phối viên dự án chia sẻ. Nhưng thực tế, nhiều em đã tìm thấy sự kết nối sâu sắc với văn hóa của chính mình thông qua những buổi gặp gỡ này. Một số em thậm chí còn bắt đầu tự học các kỹ năng thủ công truyền thống và tìm cách áp dụng chúng vào cuộc sống hiện đại.

Mỗi cá nhân là một mắt xích trong dòng chảy văn hóa

Trên thực địa của làng nghề gốm Bát Tràng, Hà Nội, nghệ nhân Trần Đức Tân đang hướng dẫn một nhóm sinh viên kiến trúc cách nhào đất, tạo phôi và trang trí sản phẩm gốm theo kỹ thuật truyền thống. Không chỉ dạy kỹ thuật, ông Tân còn kể cho các em nghe về lịch sử làng nghề, về những thăng trầm mà nghề gốm đã trải qua, và đặc biệt là triết lý nghề nghiệp được truyền từ đời này sang đời khác. Mỗi người thợ gốm không chỉ là người làm ra sản phẩm, mà còn là người giữ lửa cho cả một truyền thống. Ngọn lửa ấy không chỉ nung đất thành gốm, mà còn nung kết tâm hồn người thợ với lịch sử của làng nghề, ông Tân tâm sự khi đôi tay già nua khéo léo uốn nắn một chiếc bình gốm.

Không ít sinh viên đã bày tỏ sự ngạc nhiên trước những hiểu biết sâu sắc về vật liệu, về kỹ thuật và cả về thẩm mỹ mà các nghệ nhân như ông Tân sở hữu. Em luôn nghĩ rằng những kiến thức này chỉ có thể học được từ trường đại học, Minh Trí, một sinh viên năm thứ ba ngành Kiến trúc chia sẻ. Nhưng giờ em mới hiểu rằng có những kiến thức quý giá không nằm trong sách vở, mà trong đôi bàn tay và trí óc của những người đã sống trọn đời với nghề. Sự gặp gỡ giữa tri thức học thuật và tri thức dân gian đã mở ra một không gian đối thoại mới, nơi mỗi bên đều có thể học hỏi từ nhau. Các nghệ nhân học được cách tiếp cận hiện đại, còn sinh viên thì khám phá ra những giá trị bền vững của truyền thống.

Dự án Mỗi người một mắt xích do Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam khởi xướng đã đưa ra một cách tiếp cận mới trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống. Thay vì chỉ tập trung vào việc lưu giữ hiện vật và tài liệu, dự án nhấn mạnh vai trò của mỗi cá nhân trong việc duy trì dòng chảy văn hóa. Văn hóa không phải là thứ tĩnh tại nằm trong tủ kính bảo tàng, Tiến sĩ Nguyễn Vân Anh, Giám đốc dự án giải thích. Nó là một dòng chảy sống động, và mỗi người chúng ta đều là một mắt xích trong dòng chảy ấy. Khi một người trẻ học được một kỹ năng truyền thống, khi họ hiểu và trân trọng những giá trị văn hóa của cha ông, khi họ tìm cách áp dụng những giá trị ấy vào cuộc sống hiện đại – đó chính là lúc họ trở thành một mắt xích tích cực trong việc duy trì văn hóa. Quan điểm này đã tạo ra một sự chuyển dịch quan trọng trong cách tiếp cận bảo tồn văn hóa ở Việt Nam, từ việc chỉ tập trung vào bảo tồn hiện vật sang việc phát huy vai trò chủ thể văn hóa của mỗi cá nhân.

Các nghi lễ trưởng thành – Tạo nghi thức chuyển giao di sản

Tại Tây Nguyên, những nghi lễ trưởng thành truyền thống như lễ bỏ mả, lễ đâm trâu hay lễ cưới đã từng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh dấu sự trưởng thành và chuyển giao kiến thức, giá trị văn hóa giữa các thế hệ. Tuy nhiên, nhiều nghi lễ này đã dần biến mất hoặc giảm sút ý nghĩa nguyên bản. Nhận thấy tầm quan trọng của các nghi thức chuyển giao trong việc duy trì bản sắc văn hóa, nhiều cộng đồng địa phương đã bắt đầu tái thiết hoặc sáng tạo ra những nghi lễ mới, phù hợp với bối cảnh hiện đại nhưng vẫn giữ được tinh thần cốt lõi của truyền thống.

Một ví dụ điển hình là Lễ Trưởng thành được tổ chức hàng năm tại làng TRưng, Đắk Lắk. Thay vì các nghi lễ truyền thống đòi hỏi nguồn lực lớn và thời gian dài, làng đã phát triển một nghi lễ mới, kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại. Trong nghi lễ này, những người trẻ trong làng được giao nhiệm vụ học hỏi và thể hiện một kỹ năng truyền thống – có thể là chơi một nhạc cụ dân tộc, dệt một tấm thổ cẩm, kể một sử thi cổ, hoặc thực hiện một nghề thủ công. Sau sáu tháng chuẩn bị, họ sẽ thể hiện kỹ năng của mình trước toàn làng trong một buổi lễ trang trọng, với sự chứng kiến của già làng và các thành viên trong cộng đồng. Nghi lễ này không chỉ đánh dấu sự trưởng thành của con em chúng tôi, mà còn là cách để chuyển giao di sản văn hóa một cách có ý thức, già làng A Minh chia sẻ. Khi một đứa trẻ phải dành thời gian học hỏi một kỹ năng truyền thống, nó không chỉ học được kỹ năng đó, mà còn hiểu được giá trị, triết lý và lịch sử đằng sau kỹ năng ấy.

nhavantuonglai

Ý tưởng về việc tạo ra những nghi thức chuyển giao di sản đã lan rộng ra nhiều địa phương khác trên cả nước. Tại Hà Giang, một số trường học đã phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức Tuần lễ Văn hóa Dân tộc dành cho học sinh lớp 9 và lớp 12 – những lứa tuổi chuyển giao quan trọng trong đời học sinh. Trong tuần lễ này, các em được tham gia vào các hoạt động văn hóa truyền thống, từ học cách nấu những món ăn dân tộc, học hát dân ca, đến tìm hiểu về lịch sử và phong tục của dân tộc mình. Kết thúc tuần lễ là một buổi lễ, trong đó các bậc phụ huynh và thầy cô trao cho mỗi học sinh một vật phẩm truyền thống có ý nghĩa, như một chiếc khăn piêu, một nhạc cụ dân tộc, hoặc một cuốn sách về văn hóa địa phương. Chúng tôi muốn tạo ra những khoảnh khắc đáng nhớ trong đời các em, những khoảnh khắc gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc, cô Trang Mây, hiệu trưởng một trường THCS tại Hà Giang tâm sự. Qua đó, các em sẽ cảm nhận được rằng việc trưởng thành không chỉ là việc lớn lên về mặt tuổi tác, mà còn là việc trở thành một phần của dòng chảy văn hóa, gánh vác trách nhiệm gìn giữ và phát huy di sản của cha ông.

Kết luận

Trong hành trình tái thiết mạch nguồn văn hóa, chúng ta đã chứng kiến một sự chuyển đổi quan trọng từ cách tiếp cận bảo tồn truyền thống sang phương pháp làm mới bản sắc một cách sáng tạo và bền vững. Qua các phân tích, có thể thấy rằng việc chỉ đơn thuần lưu giữ ký ức văn hóa trong các bảo tàng hay tư liệu không đủ để duy trì sức sống của bản sắc trong thời đại toàn cầu hóa và đô thị hóa mạnh mẽ. Thay vào đó, sự kết hợp giữa công nghệ hiện đại, sáng tạo nghệ thuật đương đại và tri thức truyền thống đã tạo ra những hình thái mới cho văn hóa bản địa. Từ các festival cộng đồng như Làng tôi đến các nền tảng số như Tiếng nói từ bản, từ ứng dụng thực tế ảo tái hiện không gian văn hóa đến các mô hình du lịch cộng đồng tại Bát Tràng hay Mai Châu – tất cả đều minh chứng cho khả năng thích ứng và tái sinh của ký ức văn hóa khi được đặt trong bối cảnh đương đại. Những nỗ lực này không chỉ giúp bảo tồn di sản mà còn tạo ra những giá trị kinh tế – xã hội mới, biến ký ức từ quá khứ thành nguồn lực cho tương lai, đồng thời tạo cơ hội cho người trẻ tìm lại bản sắc của mình trong dòng chảy văn hóa dân tộc.

Mối liên kết giữa các thế hệ đóng vai trò then chốt trong việc duy trì tính liên tục của bản sắc văn hóa. Khi các không gian gặp gỡ liên thế hệ như Nhà văn hóa thế hệ ở Hà Nội hay chương trình Câu chuyện từ ông bà tại các trường học được thiết lập, chúng không chỉ là nơi truyền tải kiến thức mà còn là điểm kết nối cảm xúc và giá trị. Trong những không gian này, người cao tuổi không còn là những nhân chứng lịch sử thụ động mà trở thành những người kể chuyện chủ động, những người thầy và những nguồn cảm hứng. Đồng thời, người trẻ không chỉ là người tiếp nhận mà còn là những người sáng tạo, những người biến đổi và làm giàu thêm di sản văn hóa bằng cách nhìn và cách thể hiện mới mẻ của họ. Việc kết nối này tạo ra một mạng lưới liên thế hệ, nơi mỗi cá nhân đều đóng vai trò như một mắt xích trong dòng chảy văn hóa, không chỉ gìn giữ mà còn làm phong phú thêm bản sắc dân tộc. Như vậy, thay vì nhìn nhận sự đứt gãy văn hóa như một hiện tượng không thể đảo ngược, chúng ta có thể xem đó là cơ hội để tái định nghĩa và làm mới bản sắc, tạo ra những hình thái văn hóa mới vừa có gốc rễ trong truyền thống vừa phù hợp với bối cảnh đương đại.

Nhìn về tương lai, con đường tái thiết mạch nguồn văn hóa đòi hỏi một cách tiếp cận tổng thể và đa chiều, kết hợp giữa giáo dục, công nghệ, nghệ thuật và phát triển kinh tế. Những ví dụ thành công như dự án Ký ức số, mô hình du lịch cộng đồng ở bản Lác hay thương hiệu Ninh Bình – Quê hương di sản cho thấy tiềm năng to lớn của việc kết hợp bảo tồn di sản với phát triển bền vững. Tuy nhiên, để những nỗ lực này thực sự hiệu quả, cần có sự tham gia và cam kết từ nhiều bên: từ chính phủ và các tổ chức văn hóa đến cộng đồng địa phương, doanh nghiệp và đặc biệt là giới trẻ. Mỗi người trong chúng ta, dù sống ở đâu và làm nghề gì, đều có thể đóng góp vào việc gìn giữ và làm giàu bản sắc văn hóa thông qua việc tìm hiểu, thực hành và sáng tạo. Bởi vì, cuối cùng, văn hóa không phải là thứ tĩnh tại cần được bảo tồn mà là một thực thể sống động cần được nuôi dưỡng và phát triển. Và chỉ khi ký ức văn hóa thực sự trở thành một phần của đời sống đương đại, khi những giá trị truyền thống được tái sinh trong những hình thái mới và có ý nghĩa đối với thế hệ hiện tại, khi đó bản sắc văn hóa dân tộc mới thực sự được bảo tồn và phát triển một cách bền vững.

Về dự án Di sản sống và sự biến đổi văn hóa trong đời sống đương đại

Bài viết Tái thiết mạch nguồn – Làm mới bản sắc văn hóa để gìn giữ ký ức và kết nối thế hệ nằm trong khuôn khổ dự án Di sản sống và sự biến đổi văn hóa trong đời sống đương đại do nhóm nghiên cứu nhavanrtuonglai và các cộng sự khởi xướng và chủ trì thực hiện trong giai đoạn 2017 – 2024, với sự tài trợ kinh phí, nguồn lực chuyên môn và tư vấn triển khai từ tổ chức Storytellers Vietnam. Dự án triển khai khảo sát tại 36 tỉnh thành trên cả nước, bao quát đa dạng địa bàn từ miền núi phía Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long, phân bố theo phổ địa lý xã hội từ đô thị lớn, vùng ven đô, nông thôn đến các khu vực dân tộc thiểu số.

nhavantuonglai

Dự án đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu các hình thái biểu hiện, các đứt gãy phi vật thể và khả năng tái sinh của di sản văn hóa trong bối cảnh chuyển đổi xã hội Việt Nam. Các chủ đề nghiên cứu được triển khai theo phương pháp phân tích chiều sâu, bao gồm: hiện tượng di cư lao động và sự đứt gãy kết nối văn hóa ở thế hệ trẻ; vai trò của ký ức tập thể và ký ức phi chính thống trong cấu trúc bản sắc vùng miền; chức năng biểu tượng và không gian kết nối của bữa cơm gia đình; sự chuyển hóa của văn hóa hình thể dưới tác động của mạng xã hội và nền kinh tế biểu tượng; biến đổi trong nghi lễ tang ma và quá trình hiện đại hóa các thực hành chia ly; vị thế biên chuyển của người cao tuổi trong cấu trúc gia đình đương đại; văn hóa lãng quên và hiện tượng phủ nhận ký ức tập thể; cùng với khủng hoảng bản sắc và trạng thái vô căn cước trong tiến trình đô thị hoá gia tốc.

Phương pháp tiếp cận của dự án mang tính liên ngành, kết hợp giữa nhân học thực địa, phân tích nhân học hình ảnh, phương pháp điều tra xã hội học, và phân tích diễn ngôn truyền thông. Quy trình thu thập dữ liệu được thiết kế theo phương pháp luận khoa học xã hội, bao gồm phỏng vấn sâu, quan sát tham dự, điền dã liên vùng, khảo sát định tính về hồi ức tập thể, cũng như tổ chức đối thoại chuyên đề với các nhóm cộng đồng đại diện.

Ý kiến của người dân được ghi chép, phân loại và tổng hợp theo bộ công cụ và biểu mẫu cố định, nhằm đảm bảo tính hệ thống trong quá trình khai thác thông tin, tìm kiếm dữ liệu và xây dựng các kết luận dựa trên chứng cứ từ thông tin đầu vào. Nhóm nghiên cứu tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc đạo đức nghiên cứu, cam kết không điều hướng câu trả lời, không cung cấp thông tin sai lệch hoặc thiếu căn cứ thực chứng.

Ý kiến của chuyên gia được trích dẫn và sử dụng dựa trên các bài phỏng vấn chuyên sâu từ nhóm nghiên cứu, phát ngôn công khai trên báo chí và trích xuất từ các kết luận trong báo cáo khoa học của chuyên gia. Nhóm nghiên cứu bảo đảm tính chính xác và nguyên văn trong quá trình trích dẫn, không cung cấp thông tin sai lệch, thiếu căn cứ hoặc không có dẫn chứng liên quan đến các chuyên gia được tham chiếu trong nghiên cứu.

Dự án nhận được sự tham vấn học thuật từ các nhà nghiên cứu thuộc Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (VICAS), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội. Đồng thời, quá trình triển khai thực địa có sự hợp tác chặt chẽ với các nhóm cộng đồng địa phương, các nhà báo, nghệ nhân dân gian, cán bộ văn hóa cấp huyện và tỉnh trong việc tham vấn, thực tế hóa các vấn đề nghiên cứu và đề xuất các giải pháp triển khai phù hợp với bối cảnh địa phương, giúp dự án đạt được các mục tiêu thu thập dữ liệu định tính và định lượng.

Thông qua dự án, nhavanrtuonglai và các cộng sự mong muốn không chỉ đóng góp vào việc làm rõ các quá trình biến đổi văn hóa hiện đang diễn ra trong các không gian xã hội khác nhau, mà còn kiến tạo nền tảng đối thoại đa chiều – nơi người dân, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách có thể cùng nhau trao đổi, tái thẩm định và định hình lại các giá trị văn hóa trong bối cảnh đương đại.

Các bài viết đã xuất bản:

Ký ức tập thể và giá trị bảo tồn trong bối cảnh sáp nhập hành chính tại Việt Nam.

Làng quê vắng bóng người trẻ – Khi hành trình mưu sinh dẫn đến sự rạn nứt văn hóa.

Quê hương chỉ còn trong trí nhớ – Ký ức tập thể và sự phai mờ bản sắc địa phương.

Tái thiết mạch nguồn – Làm mới bản sắc văn hóa để gìn giữ ký ức và kết nối thế hệ.

Mâm cơm vắng người – Khi bữa ăn không còn là nơi giữ lửa gia đình.

Cái chết bị vội vàng hóa – Nghi lễ tang ma giữa thời công nghiệp.

Người già không còn được lắng nghe – Sự trầm lặng của thế hệ kể chuyện.

Với nhiều bài viết khác đang trong quá trình biên tập, dự án hứa hẹn sẽ tiếp tục mở ra những góc nhìn mới mẻ về hành trình tìm kiếm, giữ gìn và tái tạo bản sắc văn hóa Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa và công nghệ số.

nhavantuonglai

Share:

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »
Loài người cô đơn trong vũ trụ

Loài người cô đơn trong vũ trụ

Cuộc tranh luận về sự sống ngoài Trái Đất đã chuyển từ rìa sang chủ đạo. Niềm tin rằng con người cuối cùng sẽ gặp người ngoài hành tinh dựa…

Vai trò của thần thoại trong ngôn ngữ

Vai trò của thần thoại trong ngôn ngữ

Nhà ngôn ngữ học Marina Yaguello truy tìm các huyền thoại truyền thuyết và những câu chuyện tôn giáo đã định hình cách loài người hiểu về nguồn gốc của…

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Nhắn tin
1

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

2

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Gửi mail
1

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

2

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.