Lịch sử của băng – một trong những xa xỉ phẩm đầu tiên
Cá thật sự làm tốt trong các bài kiểm tra số lượng – một kỹ năng đôi khi quyết định sự sống và cái chết.
· 12 phút đọc.
Ngôi nhà băng đầu tiên
Ngôi nhà băng đầu tiên được ghi nhận có từ Năm thứ 13 dưới triều đại của Shulgi, Vua của toàn bộ Sumer và Akkad, người đã xây dựng Đại Ziggurat của Ur. Theo cách tính của chúng ta, thời gian này rơi vào khoảng năm 2081 TCN. Ngôi nhà băng được coi là một sự kiện quan trọng, bởi người Sumer thường đặt tên cho mỗi năm dựa trên một sự kiện đáng chú ý xảy ra trong năm đó. Năm thứ 13 được gọi là Năm của ngôi nhà băng. Ngôi nhà này được miêu tả trong các bản khắc chữ hình nêm còn sót lại, dài gấp đôi chiều sâu của nó và được cách nhiệt bằng các nhánh cây tamarisk.
Điều mà chúng ta không thể biết là liệu đây có phải là phát minh của Shulgi hay không, hay các hố băng tương tự đã được xây dựng trước đó, có thể từ trước khi nền văn minh Sumer hình thành. Nếu đây là ý tưởng của ông hoặc kỹ sư của ông, thì sẽ mất hơn 4.000 năm để việc sử dụng băng trở nên phổ biến như ngày nay. Tuy nhiên, các nguồn tài liệu lịch sử về nó vẫn còn hạn chế, có lẽ bởi ngay cả vào thời đó, nó đã được coi là điều bình thường.
Hạn chế trong việc ghi chép lịch sử
Đây là một trở ngại cơ bản của lịch sử: nó rất khó lường. Những điều chúng ta quan tâm có thể không nằm trong mối quan tâm của các nhà biên soạn thời cổ đại. Trong trường hợp của Sumer, các bảng đất sét mà chúng ta hy vọng sẽ tiết lộ thông tin có thể đã bị mài thành bụi theo thời gian. Hoặc, trong trường hợp các văn bản cổ điển hơn, cuộn giấy cói chúng ta cần có thể không hấp dẫn đối với người sao chép. Rất nhiều kiến thức đã bị mất. Rất nhiều sách của các tác giả nổi tiếng thời cổ đại mà chúng ta biết đã không tồn tại qua các thế kỷ.
Ví dụ, các tài liệu về Alexander Đại Đế: dù chúng ta biết rằng các nhà sử học đương thời đã viết về ông, tác phẩm của họ không vượt qua được thử thách của thời gian. Dù những tác phẩm này được các nhà sử học như Arrian và Quintus Curtius Rufus trích dẫn lại, thì họ cũng viết ít nhất 400 năm sau các sự kiện mà họ mô tả. Điều này làm phức tạp công việc của những người hiện đại muốn khám phá sự thật từ quá khứ xa xưa. Chúng ta, như Louie Kamookak, là những thám tử lịch sử, nhưng với ít manh mối hơn nhiều.
Từ thời cổ đại đến thời kỳ Cổ điển
Dù vậy, chúng ta vẫn có thể truy dấu việc lưu trữ và sử dụng băng từ thời cổ đại đến ít nhất là thời kỳ Cổ điển. Sau thành tựu đáng nhớ của Shulgi, các ghi chép về nhà băng xuất hiện trở lại khoảng 200 năm sau đó, tại Mari, một vương quốc thời kỳ Đồ Đồng ở miền đông Syria.
Câu hỏi đặt ra là liệu công nghệ băng của Mari có liên quan đến Ur của Shulgi hay không. Với khối lượng thư từ còn sót lại từ thời kỳ Đồ Đồng ở Cận Đông, chúng ta phải coi điều này là một khả năng. Điều thú vị là: Shulgi kết hôn với Taram-Uram, con gái của Apil-Kin, người cai trị Mari và là đồng đại của Shulgi.
Mari nằm tại giao lộ thương mại giữa Mesopotamia và Babylon. Không chỉ được coi là một trong những thành phố quy hoạch đầu tiên, Mari còn là trung tâm của đổi mới kỹ thuật. Người dân Mari rất giỏi xây dựng kênh đào, cả để tưới tiêu lẫn giao thông, với một kênh dài 126 km vượt qua thành phố, giúp các thương nhân có một lộ trình ngắn hơn thay vì đi theo dòng sông Euphrates quanh co.
Triều đại Lim và sự phát triển của các icehouses
Các icehouses (nhà băng) bắt đầu xuất hiện ở Mari vào cuối thời kỳ ảnh hưởng của thành phố, khoảng cuối thế kỷ 19 TCN, dưới triều đại Lim. Lịch sử dường như không diễn ra êm đẹp với triều đại này. Vị vua đầu tiên của triều đại, Yaggid-Lim, đã thành công truyền ngôi cho con trai là Yakhud-Lim.
Bất chấp nhiều thành tựu, bao gồm việc mở rộng hệ thống tưới tiêu của thành phố và củng cố tường thành, Yakhud-Lim lại trở thành chư hầu của các thành phố mạnh hơn như Aleppo, sau đó là thành phố Eshunna ở Mesopotamia, và cuối cùng là chiến tranh với người Assyria sau khi khôi phục độc lập một lần nữa. Kết thúc triều đại của ông là việc ông bị chính con trai mình ám sát.
Nếu chỉ dừng lại ở đó, triều đại Lim đã có thể chấm dứt. Tuy nhiên, khoảng năm 1776 TCN, Zimri-Lim, cháu nội của Yaggid-Lim, đã khôi phục lại triều đại. Chính dưới triều đại Zimri-Lim, chúng ta tìm thấy các ghi chép về băng.
Sự trỗi dậy của Zimri Lim và icehouses Terqa
Zimri Lim củng cố quan hệ với Aleppo bằng cách kết hôn với con gái của vua Aleppo. Ông tìm cách khôi phục vinh quang cho Mari thông qua ngoại giao, gả các con gái cho các vị vua láng giềng và liên minh với vương quốc Babylon hùng mạnh ở phía nam. Thông qua các lá thư thường xuyên từ những cô con gái đã được gả, ông duy trì một mạng lưới tình báo gia đình, nắm bắt thông tin về mọi thứ diễn ra xung quanh mình.
Vào những năm 1930, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra kho lưu trữ thư từ và hồ sơ chính thức khổng lồ của Zimri Lim, gồm hơn 22.000 tấm bảng chữ hình nêm viết bằng tiếng Akkadian, ngôn ngữ ngoại giao chính thức của Cận Đông. Một trong những tấm bảng này, Bảng của Zimri Lim, hiện được lưu giữ tại bảo tàng Louvre, kể lại việc xây dựng một icehouses tại Terqa, gần Deir ez-Zor bên bờ sông Euphrates.
Có vẻ như icehouses tại Terqa không phải là duy nhất. Zimri Lim tuyên bố đã xây dựng nhiều icehouses tương tự trên khắp vương quốc của mình. Tuy nhiên, chúng ta không biết chúng trông như thế nào, được lưu trữ băng ra sao, hay cách chúng được bảo trì. Phỏng đoán tốt nhất cho rằng chúng có thể tương tự các ví dụ sau này được người Ba Tư xây dựng.
Mối liên hệ với công nghệ yakhchal của Ba Tư
Các icehouses cổ đại của người Ba Tư, gọi là yakhchal, được xây dựng khoảng năm 400 TCN, muộn hơn nhiều so với thời của Zimri Lim. Tuy nhiên, không có lý do gì để công nghệ này không thể tồn tại trước đó khoảng 1.300 năm. Yakhchal hoạt động bằng cách làm mát qua bay hơi. Trong không khí sa mạc khô ráo, nhiệt độ giảm nhanh sau khi mặt trời lặn, thường xuống dưới mức đóng băng ở những nơi có độ cao lớn.
Cấu trúc vòm của yakhchal cho phép không khí lạnh tràn vào bên trong và xuống hố bên dưới, trong khi tường hình nón rút không khí ấm lên trên và ra ngoài. Ngoài ra, cấu trúc này được xây dựng từ loại vữa đặc biệt gọi là sarooj, gồm cát, lông dê, đất sét, lòng trắng trứng, tro và vôi. Loại vữa này không chỉ chống nước mà còn cách nhiệt rất tốt.
Một yakhchal cung cấp băng và kho lưu trữ thực phẩm lạnh trong điều kiện khu vực cụ thể – nếu độ ẩm cao hơn, nó sẽ không hoạt động. Những điều kiện này có mặt tại Mari, nhưng chúng ta không thể khẳng định liệu hai nền văn hóa có sử dụng cùng một ý tưởng kỹ thuật để tạo ra băng hay không. Mối liên kết giữa chúng trong chuỗi ý tưởng vẫn còn thiếu, vì vậy chúng ta chỉ có thể suy đoán.
Băng trong văn hóa Hy Lạp cổ đại
Chúng ta cũng không thể kết nối việc sử dụng băng của người Ba Tư với Hy Lạp cổ đại. Ví dụ, vào cuối thế kỷ thứ 5 TCN, tuyết được bán tại các khu chợ ở Athens. Có một câu chuyện được nhà tu từ học Athenaeus kể lại về nhà hài kịch Diphilus. Trong một bữa tiệc tại nhà của Gnathaena, rượu được làm mát bằng tuyết mà một trong những người tình của bà gửi tới.
Ngoài ra, nhà văn Chares of Mitylene kể rằng khi Alexander Đại Đế đến Petra sau cuộc chinh phục Nabataea, ông ra lệnh xây dựng các hố băng, được lấp đầy bằng tuyết và bảo vệ bằng cành sồi. Không có điều kiện khí hậu thuận lợi như người Ba Tư, người Hy Lạp chọn cách khác để lưu trữ lạnh. Plutarch ghi lại rằng các hố này được phủ rơm và vải.
Kỹ thuật tương tự tại La Mã và các thời kỳ sau đó
Các kỹ thuật lưu trữ băng tương tự được sử dụng ở Ý từ thời La Mã kéo dài đến thế kỷ 19. Trong cuốn sách Lịch sử các loại rượu cổ đại và hiện đại (The history of ancient and modern wines), tác giả Alexander Harrison trích dẫn một ông Lumsden mô tả cách người La Mã thu gom tuyết tại một địa điểm được gọi là Trại Hannibal (Hannibal’s camp):
Trên vùng đất khô ráo này, họ đào các hố sâu khoảng 50 feet và rộng 25 feet ở phần trên, có hình dạng giống như một hình nón. Hố càng lớn thì tuyết được bảo quản càng tốt. Khoảng 3 feet từ đáy hố, họ thường lắp đặt một tấm lưới gỗ để làm hệ thống thoát nước, phòng trường hợp tuyết tan và nước bị ứ đọng, điều này có thể khiến tuyết tan nhanh hơn. Hố được tạo hình và lót bằng cành cây cắt tỉa và rơm, sau đó được lấp đầy bằng tuyết, nén chặt thành một khối rắn chắc. Sau đó, họ phủ thêm các cành cây và dựng một mái vòm hình nón thấp, được lợp kín bằng rơm.
Cách thức này không khác biệt nhiều so với các hố băng của Alexander Đại Đế tại Petra.
Băng và sự xa xỉ ở La Mã cổ đại
Băng được lưu trữ trong các hố này sau đó được bán tại các cửa hàng hoặc được rao bán trên các con phố ở La Mã cổ đại. Điều này không nhận được sự đồng tình từ Seneca, người đã gọi việc sử dụng băng là một cơn sốt nguy hại nhất (true fever of the most malignant kind) trong tác phẩm Những câu hỏi về tự nhiên (Naturales Quaestiones). Tuy nhiên, dù Seneca có chê bai, băng vẫn là một mặt hàng xa xỉ quan trọng.
Vấn đề lớn nhất là băng thường bị bẩn trong quá trình vận chuyển từ nơi lưu trữ đến thành phố. Điều này đã dẫn đến sự ra đời của một loại bình chứa đặc biệt được Pliny Già mô tả. Loại bình này cho phép nước đã đun sôi được bao quanh bởi tuyết mà không bị nhiễm bẩn, sau đó đông thành băng.
Băng trong các ghi chép cổ đại
Dù các tài liệu cổ đề cập đến băng khá hiếm hoi, điều này không có nghĩa rằng băng là một thứ hiếm có trong đời sống thời bấy giờ, dù không phải ai cũng tiếp cận được. Những ghi chép thường nhắc đến băng một cách thoáng qua, bởi chúng là những điều mà người đọc thời đó đã biết rõ và không cần giải thích chi tiết.
Như L.P. Hartley từng viết: Quá khứ là một đất nước xa lạ, và họ – những người viết cho độc giả cùng thời – thường để lại cho chúng ta, những độc giả ngoài ý muốn, việc suy luận từ những bằng chứng ít ỏi về cách họ sống khác biệt đến nhường nào.
Kết luận về vai trò của băng trong lịch sử
Từ các ghi chép ít ỏi còn sót lại, chúng ta có thể nhận thấy rằng băng không chỉ là một sản phẩm phục vụ nhu cầu làm mát hay bảo quản thực phẩm, mà còn là biểu tượng của sự xa xỉ và quyền lực trong nhiều nền văn minh cổ đại.
Dù công nghệ lưu trữ băng đã phát triển và được điều chỉnh phù hợp với điều kiện địa phương qua từng thời kỳ, sự phổ biến của nó cho thấy vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội và thậm chí cả chính trị.
Từ các hầm băng đơn giản ở Sumer và Mari, đến yakhchal tinh vi của người Ba Tư, rồi đến các hố tuyết ở La Mã, hành trình của băng qua lịch sử là một minh chứng cho sự sáng tạo không ngừng của con người trước những thách thức về khí hậu và điều kiện tự nhiên.
Ngày nay, khi băng trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại, câu chuyện về nó trong quá khứ không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn nhắc nhở chúng ta về sự tiến hóa của nhu cầu và công nghệ qua hàng nghìn năm.