Thích Nhất Hạnh | Thiền hành yếu chỉ | Chương 02
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân, khai sáng chánh niệm giúp con người tĩnh tâm, hạnh phúc và hòa hợp với thiên nhiên.
· 30 phút đọc.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà sư, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội và hòa bình nổi tiếng trên thế giới. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân. Ông cũng là người đưa ra khái niệm chánh niệm, một phương pháp tu tập và sống đời giúp con người tĩnh tâm, hạnh phúc và hòa hợp với bản thân, với mọi người và với thiên nhiên.
Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Cười như mặt Ðức Phật Cười
Ðể chứng tỏ ta rũ bỏ được lo âu và phiền muộn, ta hãy nở một nụ cười. Một nụ cười hàm tiếu thôi, và duy trì nụ cười đó trên môi như một đức Phật. Ta tập bước như một đức Phật, và ta tập cười như một đức Phật. Ta có thể làm được như thế. Ðợi đến bao giờ nữa mới làm Phật? Ta hãy làm Phật ngay trong giờ phút hiện tại.
Tôi đã từng nói nhiều tới nụ cười hàm tiếu và tác dụng của nó trong các cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức và Trái Tim Mặt Trời. Nụ cười này tuy là hoa trái của sự tỉnh thức và sự an lạc nhưng nó cũng có tác dụng nuôi dưỡng và duy trì sự tỉnh thức và an lạc ấy. Nó mầu nhiệm vô cùng. Bạn chớ nên coi thường nó. Nó chính là kho tàng hạnh phúc của bạn. Không những nó làm cho bạn an lạc và tỉnh thức, nó còn làm cho người xung quanh bạn nhờ bạn mà được an lạc và thỉnh thức nữa. Nó chuyển ta bà thành tịnh độ. Trong khi tập thiền hành bạn nhớ duy trì nụ cười hàm tiếu; nụ cười ấy giúp cho bước chân của bạn thêm khoan thai, thêm ung dung thêm tỉnh thức và thêm an lạc. Nuôi dưỡng bước chân, không những bạn có nụ cười huyền diệu kia mà bạn còn có hơi thở nữa. Hơi thở là một phương tiện mầu nhiệm để duy trì sự thỉnh thức và an lạc.
Chuỗi ngọc
Nụ cười và những bước chân an lạc có thể được ví như những viên ngọc trai long lanh nhưng rời rạc. Hơi thở là sợi dây xâu tất cả những viên ngọc trai đó thành một chuỗi ngọc liên tục, viên này nối viên kia không có khoảng hở giữa hai viên ngọc. Do đó bạn cần có hơi thở có ý thức để cho phép thiền hành của bạn đạt tới mức thành công tối đa mà bạn có thể đạt tới.
Hơi thở, con số và bước chân
Hơi thở có ý thức khác với hơi thở không có ý thức. Thở có ý thức là thở mà biết rằng mình đang thở, hơi thở dài thì mình biết là hơi thở dài, hơi thở ngắn thì mình biết là hơi thở ngắn, hơi thở êm ái dịu dàng thì mình biết là hơi thở êm ái dịu dàng. Bạn có thể hỏi: nếu chú ý tới hơi thở thì làm sao đồng thời chú ý tới bước chân? Tôi xin trả lời: có thể được, nếu ta đồng nhất hơi thở với bước chân. Ta có thể làm như vậy được bằng áp dụng phương pháp đếm. Ðếm ở dây không phải là đếm hơi thở mà là đếm bước chân, nói một cách khác hơn là đo chiều dài của hơi thở bằng số lượng bước chân. Ví dụ: trong khi thở ra thì tôi bước được mấy bước, và trong khi thở vào thi tôi bước được mấy bước.
Ðây là phương pháp mà tôi bắt đầu áp dung cách đây vào khoảng mười lăm năm, xin đem chia xẻ với bạn để bạn thí nghiệm. Bạn bước chậm lại, nhưng đừng quá chậm, trong khi bạn thở bình thường, đừng cố kéo dài hơi thở. Như thế trong vài ba phút. Rối bạn bắt đầu nhú ý quan sát xem trong khi phổi bạn thở ra thì chân bạn buớc được mấy bước và trong khi phổi bạn thở vào thì bạn bước được mấy bước. Như thế, cả hai thứ hơi thở và bước chân dồng thời nằm gọn trong sự chú ý của bạn; nói một cách khác hơn, đối tượng của sự quán niệm của bạn vừa là hơi thở vừa là bước chân. Dụng cụ nối liền hơi thở và bước chân là sự đếm, là con số (bao nhiêu bước). Nụ cười hàm tiếu của bạn có liên hệ mật thiết đến sự tĩnh lạc của bước chân và của hơi thở. Nó cũng là phương tiện duy trì sự chú ý và sự an lạc, và nó cũng có thể đồng thời là đối tượng của sự chú ý. Sau một vài giờ thực tập nghiêm chỉnh, bạn sẽ thấy cả bốn thứ: hơi thở, con số, bước chân và nụ cười hàm tiếu hòa hợp với nhau một càch mầu nhiệm trong một trạng thái chú ý của tâm thức. Ðó là định tuệ và sự an lạc của định tuệ tạo nên do sự thực tập thiền hành. Bốn trở thành một.
Tốc độ
Ðể tôi nói tiếp bạn nghe về phép đếm. Muốn đếm cho dễ, bạn phải điêu chỉnh tốc độ của bước chân. Ví dụ hơi thở của bạn chưa kéo dài được tới ba bước mà chỉ kéo dài tới hai bước rưỡi thôi. Trong trường hợp đó, hoặc giả bạn bước mau hơn một chút để hơi thở của bạn đo đúng được ba bước, hoặc bạn bước chậm lại một chút để hơi thở của bạn đo đúng được hai bước. Rối bạn duy trì tốc độ ấy mà đếm và thở.
Hơi thở ra có thể dài hơn hơi thở vào, nhất là đối với người mới tập. Quan sát một hồi, bạn sẽ tìm ra chiều dài của hơi thở bình thường. Ví dụ 3-3 hay 2-3. Trong trường hợp đầu, hơi thở vào và hơi thở ra dài bằng nhau (3-3). Trong trường hợp thứ hai, hơi thở vào ngắn hơn hơi thở ra (2-3). Nếu hơi thở bình thường của bạn là 2-3 chẳng hạn, thì bạn ghi nhớ con số 2-3 làm con số của hơi thở bình thường, nghĩa là hơi thở vừa với buồng phổi bạn làm cho bạn dễ chịu. Bạn có thể thở như thế trong thời gian khá lâu mà không thấy mệt. Con số đầu 2 là con số của hơi thở vào và con số sau 3 là con số của hơi thở ra. Trong trường hợp bạn leo giốc hoặc xuống giốc thì chiều dài của hơi thở sẽ rút lại, và đó không phải là hơi thở bình thường. Lúc đầu tập thiền hành, bạn nên theo nhịp thở bình thường của bạn.
Lấy thêm thanh khi
Sau đó vài ba hôm, bạn có thể thí nghiệm phương pháp sau đây. Ðang bước bình thường và thở bình thường bận gia tăng một bước cho hơi thở ra. Ví dụ hơi thở bình thường của bạn là 2-2 thì bạn thực tập 2-3, và lập lại như thế chừng bốn hay năm lần, rồi trở lại hơi thở bình thường của bạn là 2-2. Thực tập như thế bạn có thể thấy khỏe, vì khi thở ra dài hơn, bạn ép hai lá phổi thêm chút nữa để cho không khí dơ trong buồng phổi đi ra ngoài nhiều hơn. Khi ta thở bình thương, ta không cho ra hết phần không khí dơ nằm ở phía dưới buồng phổi. Nếu ta thêm vào một bước khi ta thở ra, không khí ấy bị dồn ra. Tôi dặn bạn đừng thở quá bốn năm hơi như vậy vì tôi sợ làm nhiều hơn thì bạn mệt. Thở bốn năm hơi như thế rồi bạn trở lại hơi thở bình thường. Xin bạn nhớ cho là chỉ thêm một bước cho hơi thở ra chứ đừng thêm cho hơi thở vào.
Thực tập như thế vài ba lần hoặc vài ba hôm, bạn sẽ thấy có nhu yếu muốn thêm một bước nữa cho hơi thở vào. Buồng phổi của bạn như nói với bạn: bây giờ nếu được thở 3-3 nghĩa là thêm vào một bước nữa cho hơi thở vào thì sẽ khoan khoái lắm. Lúc ấy và chỉ lúc ấy thôi, bạn mới thêm một bước cho hơi thở vào. Bạn thấy khỏe lắm. Tuy nhiên bạn đừng thở như thế (nghĩa là 3-3) quá bốn hay năm lần. Hãy trở lại hơi thở bình thường là 2-2. Vài phút sau nếu muốn, bạn sẽ lại thở 2-3 rối 3-3 trở lại. Chừng vài tháng sau hiệu năng của hai lá phổi bạn sẽ lớn hơn, phổi của bạn lành mạnh hơn và máu huyết của bạn sẽ được gạn lọc kỹ lưỡng hơn. Hơi thở được gọi là bình thường của bạn có thể được thay đổi. Ví dụ từ 2-2, nó có thể trở thành 3-3. Dùng hơi thở bình thường để thực tập thiền hành. Tốc độ của bước chân trở nên thuần nhất.
Ði đứng để tiếp hiện sự nghiệp giác ngộ
Tôi đã thưa với bạn là bạn hãy đi như một đức Phật đi, bước những bước như đức Phật bước. Mỗi bước chân của bạn in sự an lạc và vô ưu của bạn trên mặt đất. Ðất dưới chân bạn đi trở thành tịnh độ, trở thành thánh địa. Năm 1968, tôi có dịp đi thăm núi Linh Thứu, nơi Thích Ca cư trú. Tôi đã có dịp đi thiền hành một mình trên những con đường mòn ngày xưa tịnh xá ngài được xây cất, đã ngồi trên những tảng đá ngày xưa ngài chắc chắn đã có ngồi; và nhìn mặt trời đỏ chói đang lặn xuống chân trời tôi biết ngày xưa đã bao nhiêu lần ngài đã từng ngồi ngắm cảnh tượng mặt trời lặn ấy. Tôi đã cảm thấy một cách rất hiện thực là nếu tôi không đi, không đứng, không ngồi và không nhìn như ngài thì tôi không thể tiếp nối được sự nghiệp của ngài. Bạn cũng vậy, nếu bạn không đi, đứng, ngồi và nhìn như Phật thì không thể nào tiếp nối được sự nghiệp của Phật. Không thể thiệu long thánh chủng, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ơn đức (1) được. Không thể bằng thuyết giảng kinh điển mà ta có thể tiếp nối sự nghiệp giác ngộ; chính là bằng sự đi, đứng ngồi và nhìn hàng ngày của chúng ta.
Sen nở dưới mỗi bước chân
Khi một nhà nghệ sĩ vẽ hoặc tạc tượng Phật ngồi trên một tòa sen, đó không phải là ông ta chỉ muốn tôn quý đức Phật và làm đẹp cho ngài. Ông ta muốn diễn tả rằng ngài đang ngồi một cách an lạc. Ai cũng đã từng ngồi; chúng ta ngồi xuống nhiều lần trong một ngày nhưng ít ai trong chúng ta mà nồi được an lạc, thảnh thơi và hùng vĩ như đức Phật. Nhiều người trong chúng ta ngồi chưa nóng đít đã phải nhỏm dậy, nhiều người trong chúng ta ngồi như ngồi trên đống lửa. Trong khi đó, đức Phật ngồi trên bãi cỏ hoặc trên một tảng đá nhưng đẹp đẽ và thanh thoát như đang ngồi trên một đóa sen. Hồi tôi mới vào chùa thầy tôi dậy trước khi ngồi xuống, phải quán niệm: Chánh thân đoan tọa, đương nguyện chúng sanh tọa bồ đề tọa, tâm vô sở trước. Quán niệm như vậy xong mới từ từ ngồi xuống. Ðó là học ngồi theo kiểu đức Phật. Câu quán niệm trên có nghĩa là Ngồi xuống một cách ngay thẳng, tôi mong cho mọi người ai cũng được ngồi trên tòa giác ngộ, lòng không vướng bận bất cứ một niệm lo âu nào. Tôi muốn nhắn với các bạn nào đang tu Tịnh Ðộ: hãy ngồi trên một đóa sen ngay từ bây giờ, không phải đợi về tới Tịnh Ðộ mới ngồi trên một đóa sen. Hãy hóa sinh trong một bông sen ngay trong mỗi giờ phút hiện tại, đừng đợi đến lúc lâm chung mới chịu hóa sinh. Hóa sinh trong một bông sen và ngồi trên tòa sen ngay từ bây giờ thì bạn không còn nghi ngờ gì nữa về sự có mặt của cõi tịnh độ. Ngồi cũng vậy mà đi cũng vậy. Nhà nghệ sĩ vẽ đức Phật sơ sinh bước đi bảy bước, mỗi bước chân làm nở một bông sen trên mặt đất. Ta phải bước những bước như thế, bước cho an lạc thanh thoát như một bông sen nở dưới mỗi bước chân mình. Khi thiền hành, bạn hãy thí nghiệm phép quán tưởng này. Thấy dưới mỗi bước chân mình có một bông sen nở. Giống hệt như đức Phật sơ sinh. Bạn đừng có mặc cảm. Hễ bước chân của bạn an lạc và vô ưu thì dưới bàn chân bạn xứng đáng có một bông sen nở. Bạn cũng là một đức Phật như bất cứ ai khác. Ðiều này có phải là do tôi nói ra đâu. Chính đức Phật đã nói như thế. Ngài nói tất cả mọi chúng sinh đều có thể tính giác ngộ. Thực tập thiền hành là thực tập sống tỉnh thức; tỉnh thức và giác ngộ là một, giác ngộ đưa đến tỉnh thức, và tỉnh thức đưa đến giác ngộ.
Phép lạ là đi trên mặt đất
Bước những bước đi thanh thản và an lạc trên mặt đất, đó là một phép lạ mầu nhiệm. Có người bảo đi trên mây hồng, đi trên bàn chông hoặc đi trên mặt nước mới là phép lạ. Tôi thì tôi thấy đi trên mặt đất là một phép lạ rồi. Neige Marchand, khi dịch cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức ra Pháp văn, đã chọn cho bản in tiếng Pháp có cái đầu đề sách là Le Miracle, c_est de marcher sur terre, Phép lạ là đi trên mặt đất. Tôi ưa cái đề sách ấy lắm. Giả dụ bạn và tôi là hai phi hành gia không gian; chúng ta đi lên tới mặt trăng rồi, nhưng không trở về Trái Đất được vì phi thuyền của chúng ta hỏng máy mà chúng ta không có phương tiện nào sửa chữa được. Trung tâm không gian ở dưới Trái Đất không kịp thì giờ gởi một phi thuyền khác lên cứu chúng ta, và chúng ta biết rõ rằng trong hai ngày nữa chúng ta sẽ chết vì hết dưỡng khí. Lúc đó, trong bạn và trong tôi, chúng ta không còn mơ tưởng và ước mơ gì khác ngoài sự được trở về Trái Đất xanh mát và thần tiên của chúng ta để lại có thể bước bên nhau những bước đi thanh thản và vô ưu. Biết chắc là sẽ chết, chúng ta mới thấy được những bước chân trên mặt hành tinh xanh là quý giá. Giờ đây chúng ta hãy tự xem mình là những phi hàng gia sống sót trở về được tới Trái Đất: chúng ta phải bước thật sung sướng thật an lạc trên hành tinh thân yêu của chúng ta. Chúng ta thực hiện phép lạ trong từng bước chân. Hoa sen nở dưới chân ta là như thế. Bạn thực tập đi, ý thức rằng mình đang bước những bước nhiệm màu trên mặt đất. Trái Đất sẽ xuất hiện trước mặt ta và dưới chân ta như một thực thể màu nhiệm. Với chánh niệm đó, với phép quán tưởng đó, bạn có thể bước được những bước cực kỳ sung sướng trên mặt đất này.
Bạn hãy thử đứng một chân trên đất và ý thức rằng bàn chân mình đang đạt trên Trái Đất trọn vẹn. Bạn có thể thấy một cách rõ ràng cả quả đất tròn (đại địa) dưới chân bạn. Trong khi bước, bạn cũng có thể nhìn xuống đất và thấy trước được chỗ đất mà bạn sẽ đặt chân lên, và khi bạn đặt chân lên đúng chỗ đó, bạn ý thức một lần về bàn chân bạn, chỗ đất ấy, và sự xúc tiếp giữa bàn chân bạn với chỗ đất ấy. Bạn cũng có thể quán tưởng bàn chân bạn là chiếc ấn của một vị quốc vương. Trong thiền đường, lúc đi kinh hành, bạn cũng có thể áp dụng các phép quán tưởng ấn của quốc vương, sen nở dưới chân và Trái Đất xuất hiện.
Chọn lựa đối tượng
Mục đích của thiền hành là sự tỉnh thức và an lạc. Tỉnh thức và an lạc cần được liên tục, vì vậy ta sử dụng tới hơi thở, bước chân con số và nụ cười. Sự phối hợp bốn yếu tố này tạo nên niệm lực và định lực. Niệm là sự tỉnh táo là không quên lãng, sự có mặt của ý thức và sự nhớ biết. Chữ niệm vốn được dịch từ Phạn ngữ smrti; tiếng Pali là sati. Còn định là sự ngưng tụ, tập trung trạng thái không tán loạn và không đi lạc của tâm thức. Thiền hành tạo ra niệm, định và sự an lạc. Tuy vậy, không nhất thiết là bạn phải quy tụ được cả bốn yếu tố hơi thở, con số, bước chân và nụ cười bạn mới đạt được chánh niệm và sự an lạc. Có khi chỉ cần bước chân mà thôi bạn cũng đủ có chánh niệm và sự an lạc rồi. Khi chánh niệm và sự an lạc ấy rời rạc và không được liên tục bạn mới cầu viện tới hơi thở con số và nụ cười. Phối hợp hơi thở, con số và bước chân là điều mà ai cũng có thể làm được. Nhưng khi bạn đặc trọng tâm của sự chú ý vào bước chân thì ý thức về hơi thở và con số yếu đi, như khi ta cắm lò sưởi điện vào thì bóng đèn lu bớt. Ðiều đó không sao nếu bạn vẫn duy trì được chánh niệm nơi bước chân. Bạn hỏi: nếu dồn hết niệm lực vào bước chân để quán tưởng, ví dụ quán tưởng bông sen đang nở dưới chân mình, thì làm sao còn thấy được màu nhiệm khác như ngõ trúc mát hay bờ lúa thơm? Ðúng vậy, môi trường của định càng lớn thì định bị yếu đi. Nếu bạn chọn bông sen thì bạn hãy chú ý tới bông sen thôi. Nếu bạn chọn Trái Đất thì bạn chỉ chú ý tới Trái Đất khi nó xuất hiện. Bàn chân bạn đặt trên mặt đất, tức thì bạn thấy tất cả đại địa dưới bàn chân bạn. Ðại địa là trọn vẹn cả Trái Đất. Bạn có thể đồng thời thấy bàn chân bạn và cả quả địa cầu xanh.
Nếu bạn muốn chú ý tới lúa thơm, tre mát, hoặc cây lá, mây trời, thì bạn đứng lại. Duy trì hơi thở, bạn nhìn ngắm tất cả những thứ ấy theo thứ tự chú ý của bạn. Bạn cũng có thể nở nụ cưới hàm tiếu và duy trì nụ cười ấy mà không thấy gì trở ngại. Một lát sau, bạn lại tiếp tục thiền hành, và chú ý tới bước chân.
Quán ngữ thay cho con số
Con số bước chân bạn có thể thay thế bằng những lời quán ngữ. Ví dụ nhịp thở của bạn là 3-3 và bạn đang quán tưởng tới bông sen nở dưới chân bạn thì bạn có thể thầm niệm: bông sen nở/bông sen nở. Nếu là 2-3, thì bạn có thể thầm niệm sen nở/bông sen nở. Nếu bạn muốn quán tưởng đại địa, bạn có thể mật niệm hành tinh xanh/hành tinh xanh (3-3) hoặc bước trên hành tinh xanh/bước trên hành tinh xanh (5-5) hoặc bước trên hành tinh xanh/tôi bước trên hành tinh xanh (5-6). Bạn hãy tìm ra quán ngữ với số ám thích hợp.
Nếu bạn tu tịnh độ, bạn có thể niệm A Di Ðà Phật/A Di Ðà Phật (4-4) hoặc Nam Mô A Di Ðà Phật/Nam Mô A Di Ðà Phật (6-6). Phương pháp này dể áp dụng cho những dân tộc mà tiếng nói là đơn âm. Tôi đã từng thấy nhiều thiền sinh tây phương áp dụng phương pháp này với ngôn ngữ đa âm của họ, và cũng thành công. Họ dùng những quán ngữ như Walking on the green earth/I walk on the green earth (6-6). Quán ngữ ấy nối liền hơi thở và bước chân đồng thời làm xuất hiện đại địa.
Tương lai nhân loại tùy thuộc vào bước đi của bạn
Trong khi thực tập thiền hành, bạn bước một cách tự nhiên, không cần phải chắp tay búp sen, không cần phải làm ra vẻ trịnh trọng. Trong công viên hoặc dọc bờ sông, bạn chọn những khúc đường nào ít người. Tại thiền viện, bạn có thể thực tập bất cứ lúc nào; ai thấy bạn thực tập cũng nhận ra là bạn đang thiền hành, họ sẽ không làm rộn bằng sự chào hỏi. Gặp một người trên thiền lộ, bạn chỉ cần chắp tay làm thành búp sen trước ngực, rồi tiếp tục thiền hành.
Hồi còn cư trú tại vùng Sceaux, buổi sáng và buổi tối đi thiền hành tôi thường bị mấy con chó hàng xóm chạy ra sủa. Tại thiền viện Mount Tremper ở miền Bằc Nữu Ước, một buổi sáng nọ khi tôi chỉ dẫn cho các thiền sinh Hoa Kỳ về phép thiền hành, chúng tôi cũng bị một con chó chạy ra sủa. Chó ở Hoa Kỳ cũng như chó ở Pháp không quen với cách đi bộ khoan thai và im lặng. Nếu chúng tôi nện giày lộp cộp và đi rất mau thì chúng sẽ cho là bình thường và sẽ không chú ý. Tôi nói với các thiền sinh: Sang năm nếu tôi trở lại đây để thiên hành cùng quý vị thì chắc con chó này sẽ không còn sủa khi chúng ta đi thiền hành nữa. Quý bị sẽ thực tập thiền hành suốt năm, và con chó sẽ quen với lối đi chậm rãi của quý vị. Ai cũng nhận là phải. Tôi thầm nghĩ cách đi đứng, cách nhìn cách ngồi của chúng ta, nghĩa là đời sống văn hóa của chúng ta ảnh hưởng tới mọi loài động bật và thảo mộc. Bao nhiêu loài động vật và thực vật đã bị diệt chủng vì sự giết chóc của chúng ta và vì sự tàn hại mà chúng ta đã gây nên cho môi trường của sự sống. Môi trường của sự sống bị tàn hại đang trở lại tàn hại chúng ta. Sự ô nhiễm của nước uống và của không khí đã bắt đầu gây thiệt hại cho con người. Hiện chúng ta đã chế tạo trên năm mươi ngàn vũ khí nguyên tử rồi, đủ để tiêu diệt mấy mươi lần quả đất, mà chúng ta còn đang tiếp tục chế tạo thêm nữa, không thể dừng lại được. Nhân loại đang như một kẻ thụy du (sleep walker), không biết mình đang đi và không biết mình đang đi về đâu. Loài người có bừng tỉnh hay không là do ở mỗi chung ta có bước được những bước ý thức và thỉnh táo hay không. Vì vậy mà tương lai con người cũng như tương lai sự sống trên Trái Đất tùy thuộc ở bước đi của bạn.
Hãy để tôi bước bằng hai chân anh
Chiến tranh đã gây cho chúng ta bao nhiêu thương tích trong tâm hồn và nơi thân thể. Có nhiều Phật tử đã mất một cánh tay, và không còn có thể chấp tay búp sen để lạy Phật hay để chào nhau. Có nhiều Phật tử đã mất một bắp chân và không còn có thể ngồi kiết già hay bán già, và không thể đi thiền hành được nữa. Năm ngoái, có hai vị Phật tử như thế đến Am Phương Vân thực tập. Chúng tôi phải thi thiết những phương tiện để các vị ấy thực tập. Họ ngồi trên ghế ở góc thiền đường trong khi đại chúng ngồi kiết già hay bán già trên sàn gỗ. Tôi đã chỉ dẫn cho các vị này đi kinh hành bằng cách ngồi yên trên ghế, chọn và theo dõi một hành giả đang đi kinh hành, đồng nhắt mình với người đó và buộc theo người đó trong quán niệm. Nhu thế trong khi ngồi, ta có thể theo vị hành giả kia mà đặt những bước chân an lạc và thanh tinh trên sàn gỗ. Ta cũng có thể làm những bông sen nở dưới gót chân ta. Các vị Phật tử này đã thực tập theo pháp môn tôi thi thiết và đã thành công. Lần đầu thực tập tôi thấy họ rơm rớm nước mắt. Bạn là người có đủ hai cánh tay và hai bắp chân, bạn có thể chấp tay búp sen, ngồi kiết già hay đi kinh hành một cách thoải mái và dễ dàng. Bạn phải thấy được sự may mắn của bạn. Hãy là bị hành giả kia, đi thiền hành cho mình và cho người đồng bào của mình đang ngồi trên ghế và theo dõi bước chân bạn. Bạn có biết là bạn đang bước cho nhiều người hay không?
Thiền hành để được an lạc
Thực tập thiền hành, bạn có thể đi chung với người khác, dĩ nhiên là đi chung mà không nói chuyện. Dễ dàng hơn hết là bạn đi riêng một mình. Ði một mình bạn có thể tập trung ý dễ hơn, quán tưởng dễ hơn. Sáng nào tôi cũng thức sớm để thiền hành, và trong ngày hể có được năm mười phút hoặc nửa giờ là tôi thiền hành. Thiền hành cho bạn nhiều an lạc, nhiều tỉnh táo nhiều hạnh phúc. Hãy biến tất cả mọi con đường trên thế gian làm thiền lộ. Bạn không thiền thì thiệt cho bạn, thiệt cho tôi và thiệt cho sự sống của người và mọi loài. Trong những buổi thiền hành đầu, đi chậm lại, bạn có thể bước những bước không vững chãi, giống như một đứa bé mới tập đi. Theo dõi hơi thở, đặt trọng tâm của sự quán niệm vào bước chân bạn sẽ thấy bước đi của bạn vững vàng hơn. Bạn đã từng quan sát bước chân của con bò và bước chân của con hổ khi chúng đi chậm không? Con bò bước những bước rất gọn gàng, rất đỉnh đạt. Con hổ bước những bước dịu dàng uyển chuyển. Thiền hành quen bạn sẽ thấy bước chân bạn trở nên gọn gàng, đỉnh đạt và uyển chuyển.
Ði để mọi loài được thấm nhuần lợi lạc
Không khí ở ngoài trong và mát, nhất là vào buổi sáng và buổi khuya. Không có nguồn năng lực nào bổ dưỡng bằng thanh khí. Khi thiền hành, bạn hấp thụ đều đặn nguồn năng lực ấy và bạn thấy thể chất và tinh thần khương kiện thêm lên. Thiền hành có đều, bạn sẽ thấy sự sống hàng ngày từ từ thay đổi. Ðộng tác của bạn trở nên khoan thai và tỉnh thức. Trong khi giao tiếp, xét đoán, quan sát và định đoạt, bạn thấy bạn trầm thỉnh, sâu sắc và từ bi hơn. Mọi loài xa gần, lớn nhỏ, từ trăng sao đến ngọn lá và con sâu đều sẽ được thấm nhuần lợi lạc nhờ những bước chân của bạn.
Có thấy có hiểu mới thương
Trước khi chấm dứt thiền phổ này, tôi xin có một đôi lời tâm sự cùng bạn. Tôi có nói với bạn là cõi ta bà có đủ mọi mầu nhiệm của cõi tịnh độ. Nhưng tôi chưa nhắc cho bạn nghe là cõi ta bà hơn cõi tịnh độ ở chỗ ở đây có sự có mặt của khổ đau. Nếu tôi ngần ngại không muốn về cõi Cực Lạc, không phải chỉ vì bên ấy thiếu cây khế và câu chanh mà cũng bởi vì bên ấy thiếu sự có mặt của đau khổ. Nhận thức căn bản và đầu tiên của người Phật tử là sự có mặt của khổ đau; nếu bạn không đồng ý với nhận thức ấy của tứ diệu đế thì không có cơ hội nào đẻ bạn thành một Phật tử. Chính ý thức về khổ đau luyện cho ta có được từ bi và ý chí hành đạo. Theo chỗ hiểu biết của tôi thì từ bi và trí tuệ là một, bởi vì có thấy có hiểu mới biết thương. Nếu không thấy không hiểu thì cái thương đó chưa phải là thương. Có thể đó chỉ là đam mê, hoặc ham muốn. Hồi tôi trở về Âu Châu sau chuyến công tác cứu trợ thuyền nhân, tôi có cảm tưởng sự sống ở xã hội tây phương không phải là sự sống của tôi. Sau khi đã chứng kiến những đau thương và khổ nhục của người tỵ nạn trên biển, về tới phi trường Paris, đi qua những phố xá và những siêu thị với các ánh đèn màu, tôi thấy tôi đang đi trong một giấc mơ. Làm sao có thể có sự cách biệt lớn lao như thế giữa hai tình trạng, tình trạng của người trên biển bị xua đuổi cướp bóc, hãm hiếp và giết hại và tình trạng của người trên đất liền đang tìm lạc thú nơi cốc rượu và ánh đèn màu. Cái ý thức về khổ đau trong tôi chỗi dậy đối kháng lại nếp sống quên lãng và vô tình ấy. Ðã đành bên xứ Phật có đức A Di Ðà và các bậc bồ tát thánh chúng luôn luôn nhắc nhở về tứ diệu đế, về bát chánh đạo, nhưng làm sao pháp âm có thể thay thế được sự chứng nghiệm trục tiếp về khổ đau? Hồi chiến tranh Việt Nam đang tiếp diễn, tây phương cũng trông thấy hình ảnh đau thương của đồng bào ta trên màn ảnh truyền hình, nhưng nhìn những hình ảnh đó làm sao thông cảm được nỗi đau khổ của người Việt. Tôi đã từng nhìn những hình ảnh đó và tôi thấy chúng không diễn tả được những đau khổ thống thiết của đồng bào tôi.
Ðừng làm lu mờ một nửa pháp thân
Vì những lý do đó, tôi thấy ta bà là nơi thuận lợi nhất cho ta hành đạo. Tôi thấy các tư tưởng gia đại thừa đi quá trong khi đồng nhất pháp thân với cái đẹp và cái lành. Khi nói trúc tím hoa vàng không có phải là cảnh ngoài, mây trắng trăng thanh đều hiện lộ toàn chân (2), các vị ấy đã làm cho pháp thân lu mờ đi một nữa. Chân tướng của pháp thân còn là bùn lầy nước đọng, còn là tham sân si, còn là khổ đau và sự xâu xé nhau của mọi loài. Ở cõi tịnh độ, tiếng hót của các loài chim như ca lăng tần già trở thành tiếng thuyết pháp. Tại cõi ta bà, tiếng hót của các loài chim cũng có thể biểu hiệu của pháp thân các pháp từ xưa nay, vốn không là sinh diệt, xuân đến trăm hoa mừng, oanh vàng ca liễu thắm (3). Tiếng chim ca lãnh lót đối với chúng ta thường biểu lộ sự tươi sáng và yêu đời. Nhưng nhìn sâu vào thực tại, ta thấy tiếng chim ca cũng có thể là dấu hiệu của khổ đau. Một hôm thiền tọa trong rừng, nghe tiếng chim kêu tôi bỗng rùng mình. Tôi thấy rõ những con sâu đang núp dưới các cọng lá hay hốc cây cũng đang rùng mình như tôi. Tiếng chim kêu làm cho các loại sâu bọ và côn trùng hoảng sợ cũng như ta hoảng sợ khi ngồi trong rừng mà nghe tiếng cọp gầm.
Hãy chọn các vị Bồ Tát làm bạn đồng hành
Phép thiền hành giúp ta mở mắt để thấy được bao nhiêu nhiệm mầu trong vũ trụ, chuyển ta ba thành tịnh độ, giúp ta cởi bỏ phiền não lo âu, cho ta sự an lạc. Nhưng phép thiền hành cũng giúp ta thấy được những đau thương, những rên siết và quằn quại của cuộc đời. Khi ta tỉnh thức ta thấy được tình trạng thực của cuộc sống. Tôi thường nói với các thiền sinh: các bạn làm sao thấy được tự tính (kiến tánh) nếu các bạn không thấy được những gì đang xãy ra trước mắt và xung quanh các bạn. Không phải nhắm mắt lại là thấy được tự tánh. Trái lại, phải mở mắt ra, và thức thỉnh dậy trong tình trạng thực của cuộc đời, nghĩa là thấy được pháp thân toàn vẹn của các bạn. Những con đường lúa thơm tho, những ngỏ trúc râm mát, những công viên đầy lá thắm rụng… những con đường ấy là thiền lộ của bạn, bạn hãy thưởng thức đi. Những con đường ấy không đưa bạn đi vào quên lãng mà trái lại sẽ đưa bạn đi tới sự tỉnh thức để bạn thấy rõ được những khổ đau hiện thực của thế giới. Lúc bấy giờ thiền lộ của bạn là mọi nẻo đường thế gian; đã tỉnh thức rồi, bạn sẽ không còn ngần ngại gì mà không đi vào những con đường ấy. Bạn sẽ đau khổ nhưng không phải đau khổ vì những phiền muộn, ưu tư và sợ hãi của mình, bạn đau khổ vì đồng loại, vì muôn loài, vì tình thương của một người tỉnh thức, nghĩa là một vị bồ tát. Bồ tát, Bodhistva, người Trung Hoa dịch là giác hữu tình. Giác hữu tình là một người tỉnh thức. Và lúc đó, trên đường bạn đi, tất cả những người đồng hành với bạn đều là những vị bồ tát bất thối chuyển.
Đọc Thiền hành yếu chỉ, chương 01 tại đây.
Đọc Thiền hành yếu chỉ, chương 02 tại đây.
Đọc Thiền hành yếu chỉ, toàn tập tại đây.