Tại sao dường như triết học đã chết?
Chúng ta muốn một ngôi nhà lớn hơn, nhiều tiền hơn, và luôn muốn trở nên xinh đẹp hơn. Chúng ta cam kết với một dự án cho đến khi nó làm chúng ta chán, rồi sau đó chúng ta cam kết với dự án khác.
· 9 phút đọc.
Tại sao không có triết gia lớn nào xuất hiện gần đây? Triết học dưới nhiều hình thức khác nhau dường như không còn được quan tâm, ngoại trừ với các sinh viên của nó. Những lý do nào dẫn đến điều này?
Ôi trời, có rất nhiều giả định trong câu hỏi này, Wassan — đặc biệt là việc có rất nhiều triết gia nổi tiếng vẫn còn sống hoặc ít nhất còn trong ký ức gần đây. Nhưng tôi sẽ tiếp nhận câu hỏi với tinh thần mà nó được đặt ra, đó là tự hỏi về sự suy giảm của triết học như một ngành học nói chung. Các triết gia công chúng đang ở đâu? Diễn đàn đầy những người râu ria chỉ tay lên trời để nhấn mạnh một quan điểm quyết định đã biến mất nơi đâu? Sự trưởng thành về trí tuệ và những cuộc tranh luận đã đi về đâu?
Để đào sâu câu hỏi này, chúng ta sẽ phải đi sâu vào bản chất và lịch sử của triết học. Để tạo ra một chút trật tự cho vấn đề, tôi sẽ hướng nó thành một cuộc tranh luận hai phía. Đầu tiên, chúng ta sẽ xem xét ý tưởng rằng triết học đang chết (hoặc đã chết) và tại sao điều đó có thể xảy ra. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét phản biện để lập luận rằng không chỉ triết học như một ngành học đang phát triển mạnh, mà triết học như một thực hành còn thấm nhuần vào mọi điều chúng ta làm. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét các sự thật và kéo bài viết này gần hơn với đồng minh khoác áo phòng thí nghiệm, được gọi là bằng chứng.
Đeo kính bảo hộ vào, các triết gia, chúng ta có một chút sự chiêm nghiệm bản thân cần thực hiện.
Các triết gia đang ở đâu?
Khi các triết gia nói về triết học, họ thường chia môn học này thành hai: triết học phân tích và triết học lục địa. Dù cả hai thuộc cùng một gia đình, chúng cũng thường xuyên nhìn nhau với ánh mắt khó chịu qua bàn ăn Giáng sinh. Triết học phân tích — truyền thống phổ biến trong các quốc gia nói tiếng Anh — là về logic, ngôn ngữ học, và siêu hình học. Đó là những luận đề được trình bày cẩn thận dẫn đến các kết luận không thể tránh khỏi. Nó thường trông giống như toán học trong một lớp vỏ xấu xí. Triết học lục địa — phổ biến ở lục địa châu Âu — có xu hướng nhân văn hơn. Nó đề cập đến chủ nghĩa hiện sinh, bản sắc cá nhân, tôn giáo và tìm kiếm vị trí của chúng ta trong thế giới. Nó thường dễ đọc và dễ tiếp cận hơn so với một số triết học phân tích. Như Captain Holt đã nhận xét hài hước trong Brooklyn Nine-Nine, Bất kỳ triết học Pháp nào sau Rousseau về cơ bản đều giống như một tạp chí.
Khi mọi người nghĩ đến triết học, họ thường nghĩ đến triết học phân tích. Đó là một cuộc theo đuổi nghiêm ngặt và cứng nhắc, rất nghiêm túc. Vài năm trước, triết gia Liam Kofi Bright đã viết một bài tiểu luận có tựa đề The End of Analytic Philosophy (Sự kết thúc của triết học phân tích), trong đó ông nói, Triết học phân tích đang phải đối mặt với sự thất bại ba lần về niềm tin… Mọi người không tin rằng nó có thể tự giải quyết các vấn đề của mình, không tin rằng nó có thể được điều chỉnh để làm như vậy, và không tin rằng các vấn đề của nó đáng để giải quyết ngay từ đầu. Chính vấn đề cuối cùng này, tôi nghĩ, đã chạm đến trọng tâm của câu hỏi của Wassan. Mục đích của triết học là gì? Tại sao Bertrand Russell và Alfred Whitehead lại dành 360 trang để chứng minh rằng 1+1=2? Điều gì là mục đích khi Zeno lập luận rằng một con rùa sẽ không bao giờ vượt qua Achilles?
Bright nói về một bước ngoặt ứng dụng, nơi triết học chỉ trở nên phổ biến khi người ta cảm thấy rằng phân tích triết học có thể có tác động thực sự trong thế giới thực. Đó là ở các lĩnh vực như bất công, áp bức, tuyên truyền, và hệ tư tưởng mà các triết gia có thể tìm được việc làm — cả trong học viện lẫn thế giới thực — như cố vấn chính sách hoặc nhà tư vấn. Đó là một tư duy thực dụng đánh giá giá trị của tri thức — giá trị của bất cứ thứ gì — dựa trên những gì nó tạo ra. Nó có làm ra tiền không? Tốt. Nó có cải thiện thế giới không? Tốt. Nó không có giá trị thực tế nào rõ ràng ư? Vậy thì ngừng lãng phí thời gian và kiếm một công việc thực sự.
Các triết gia ẩn mình ở mọi góc
Vì vậy, Wassan, có thể lý do khiến triết học bị gạt ra ngoài lề là vì nó bị coi là không có tác động thực tế. Nó thiếu thứ mà triết gia William James gọi là giá trị tiền mặt. Trong một thế giới đòi hỏi GDP không ngừng tăng trưởng và các chính phủ chỉ đầu tư vào khoa học, công nghệ, kỹ thuật, và toán học (STEM), triết học có thể đóng góp gì?
Có hai vấn đề với điều này. Thứ nhất là không phải tất cả triết học đều là triết học phân tích. Những câu hỏi mà triết học lục địa cố gắng trả lời thực sự có giá trị tiền mặt rất lớn. Khi Friedrich Nietzsche thảo luận về những hệ lụy của một thời đại không có thần thánh, Emile Durkheim nói về sự mệt mỏi mà chúng ta cảm nhận trong xã hội, hoặc de Beauvoir xem xét bản chất của tình yêu đích thực, họ đang nói trực tiếp về cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Việc trở thành con người là quan trọng đối với hầu hết chúng ta, và nó có ý nghĩa khi hỏi điều đó thực sự có nghĩa là gì.
Vấn đề thứ hai là giá trị không thể đo lường bằng đầu ra. Đúng là triết học không xây dựng một tòa nhà chọc trời. Nó không phát minh ra một loại thuốc mới, không cải tiến công nghệ tên lửa, hay phát triển phần mềm. Nhưng giá trị trong các kỹ năng và tri thức của triết học không bao giờ biến mất. Có một triết lý của… trong mọi lĩnh vực. Trong thế giới kinh doanh, nó áp dụng cho các đức tính của lãnh đạo tốt và đạo đức doanh nghiệp. Trong khoa học, nó áp dụng cho phương pháp khoa học và bản chất của bằng chứng. Trong chính trị, nó định hướng cho việc hoạch định chính sách và lập pháp. Quan trọng nhất, có lẽ, là nó giúp định hướng và hiểu được thời đại trí tuệ nhân tạo đang bùng nổ. Ngay cả khi bạn nghĩ rằng triết học là vô nghĩa, các triết gia thì không.
Xin chào người bạn nhỏ của tôi: Dữ liệu
Vậy thì, có bao nhiêu sự thật trong những gì Wassan đang nói? Nếu chúng ta đang nói về triết học học thuật, thì anh ấy có một điểm. Triết học được coi là ít danh giá hơn trong các trường đại học, nơi các môn học khác xâm lấn các câu hỏi truyền thống triết học. Sinh viên ngày càng đăng ký ít hơn vào các khóa học triết học, chuyển sang các khóa học STEM hoặc các khóa học kinh doanh. Và có vẻ như vấn đề này một phần là do sự thay đổi xã hội — chúng ta coi trọng khoa học và công nghệ hơn là nhân văn.
Là một người đã học và hoàn toàn yêu thích triết học, điều đó có chút gì đó gây nản lòng. Nhưng tôi không bi quan về mọi thứ. Khi Wassan nói, Triết học dưới nhiều hình thức khác nhau dường như không còn được quan tâm, ngoại trừ với các sinh viên của nó, tôi cảm thấy cần phải phản bác lại. Tôi không đồng ý. Triết học không chỉ là về giáo trình và hạn chót nộp bài luận. Khi Neil nằm nhìn lên trần nhà, sau cơn say, tự hỏi mục đích của tất cả những buổi tối này là gì, anh ta đang tương tác với triết học. Khi Ellen hỏi một người bạn liệu lời chứng của một người có giá trị hơn một trăm bài báo khoa học hay không — đó là một câu hỏi triết học. Khi Fabi khóc trong đám tang của mẹ mình và tự hỏi điều gì đã xảy ra với bà, anh ấy đang trở thành một triết gia.
Triết học không phải là điều chỉ dành cho những thành phố đầy tháp nhọn và các thư viện im lặng; nó có mặt trong những cuộc trò chuyện lúc 1 giờ sáng và trong các buổi trị liệu cặp đôi. Nó có mặt trong các cuộc tranh luận tổng thống và các bài đánh giá trên IMDB. Mọi người đọc bài này đều đã thực hiện triết học, nhưng họ chỉ không biết — hoặc không muốn — sử dụng nhãn hiệu đó.