Cuộc xâm lược của Mông Cổ năm 1223 và tác động đến ngày nay
Lực lượng Mông Cổ chưa từng hoàn toàn chinh phục châu Âu, nhưng họ đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển lịch sử của lục địa này.
· 9 phút đọc.
Lực lượng Mông Cổ chưa từng hoàn toàn chinh phục châu Âu, nhưng họ đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển lịch sử của lục địa này.
Trận chiến năm 1241
Vào ngày 11 tháng 4 năm 1241, các binh sĩ Hungary tập hợp dọc bờ sông Hernad và Sajo được phòng thủ sơ sài để chờ đợi sự xuất hiện của quân Mông Cổ. Mặc dù quân số của Hungary vượt trội, nhưng lợi thế vẫn nghiêng về phía đối thủ. Cơn bão Mông Cổ đã càn quét qua Trung Á và Đông Âu trong gần hai thập kỷ, nuốt chửng Đế chế Khwarazmian ở Afghanistan ngày nay, các công quốc của Kievan Rus’, và gần đây nhất là Vương quốc Ba Lan.
Nhờ kỹ năng cưỡi ngựa và bắn cung vô song – cung Mông Cổ nhẹ hơn, nhanh hơn và chính xác hơn so với loại cung của châu Âu – quân Mông Cổ đã phá vỡ các đội quân lớn gấp nhiều lần, và Hungary cũng không phải ngoại lệ. Hàng phòng thủ tại Sajo và Hernad bị xuyên thủng, các thành phố bị thiêu rụi, mùa màng và gia súc bị tịch thu, và ước tính 25% dân số Hungary bị giết hại.
Vua Hungary Béla IV phải chạy trốn đến bờ biển Dalmatian, thuộc Croatia thời bấy giờ, nơi mà ông và vương quốc của mình chắc chắn sẽ bị tiêu diệt nếu không phải vì Ogodei Khan bất ngờ qua đời cùng năm đó, buộc quân Mông Cổ ở khắp nơi phải quay về để bầu chọn một nhà lãnh đạo mới.
Cuộc xâm lược Mông Cổ tại châu Âu, dù chưa hoàn thành, vẫn để lại dấu ấn trên những người sống sót. Toàn bộ vương quốc quý giá, Hoàng đế Thánh chế La Mã Frederick II viết về Hungary, đã bị tàn phá, hoang phế và biến thành vùng đất cằn cỗi. Cuộc xâm lược này cũng được cho là đã thúc đẩy sự lây lan của bệnh dịch hạch, dẫn đến cái chết của khoảng 200 triệu người trên toàn thế giới.
Hệ quả lâu dài của cuộc xâm lược
Dù tội ác và tổn thất của cuộc chinh phạt Mông Cổ là không thể đếm xuể, nhưng những tác động lâu dài của nó đối với sự phát triển của nền văn minh cũng không thể phủ nhận. Ba Lan, Hungary, và đặc biệt là Nga đã hồi phục mạnh mẽ, xây dựng nền móng cho các quốc gia vẫn tồn tại đến ngày nay. Với việc các vùng đất ở châu Á được thống nhất dưới một nhà cai trị duy nhất, ý tưởng và phát minh đã có thể lan truyền tự do và an toàn hơn từ đầu này đến đầu kia của thế giới. Một cách kỳ lạ, người Mông Cổ thậm chí còn gián tiếp liên quan đến các sự kiện xa xôi như cuộc xâm lược Ukraine của Vladimir Putin.
Pax Mongolica – Thời kỳ hòa bình của Mông Cổ
Dù người Mông Cổ có thể chinh phục toàn bộ châu Âu, họ đã không làm vậy. Sau khi Ogodei qua đời, các cuộc xâm lược nhường chỗ cho các cuộc tranh giành quyền lực giữa các hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn. Tuy nhiên, ngay cả khi có một người kế vị không bị tranh cãi, người Mông Cổ cũng khó có khả năng tiến xa hơn. Hungary, nổi tiếng với các đồng cỏ và thảo nguyên, từ lâu đã được xem là chặng cuối của chiến dịch. So với đó, các khu rừng rậm rạp ở Trung và Tây Âu không chỉ khó khăn cho người Mông Cổ du mục di chuyển trong chiến tranh mà còn không đáng để chiếm giữ trong thời bình.
Như vậy, bắt đầu một thời kỳ mà các nhà sử học đôi khi gọi là Pax Mongolica, thời kỳ khi Đế chế Mông Cổ chủ yếu ngừng mở rộng và các Khan tập trung vào việc duy trì các vùng lãnh thổ mà người tiền nhiệm của họ đã thâu tóm. Trung tâm của Pax Mongolica là sự hồi sinh của thương mại quốc tế. Kể từ thời La Mã cổ đại, chưa từng có một đế chế nào đủ lớn và mạnh để kết nối châu Âu với Đông Á một cách bền vững. Dưới sự giám sát của người Mông Cổ, các tuyến thương mại trên Con đường Tơ lụa – nhiều trong số đó đã trở nên nguy hiểm và bị bỏ hoang sau sự sụp đổ của La Mã – đã được mở lại, tạo ra các ngành công nghiệp và nền kinh tế mới. Gạo và đồ sứ di chuyển về phía Tây trong khi đồ thủy tinh và lông thú được đưa về phía Đông. Lụa Trung Quốc, được cho là sản phẩm quan trọng nhất, đã làm giàu các thành phố-đất nước Ý như Genoa, Florence và Venice, đủ để tài trợ cho thời kỳ Phục Hưng.
Các thương nhân trên Con đường Tơ lụa không chỉ giao dịch hàng hóa tiêu dùng mà còn cả ý tưởng, phát minh và bản sắc. Trong một bài giảng, Edward Vajda, một nhà ngôn ngữ học lịch sử tại Đại học Western Washington, giải thích: Giữa sự sụp đổ của La Mã và sự ra đời của Thành Cát Tư Hãn, không có một thế giới quốc tế nào. Chỉ có những thế giới riêng biệt… Các phát minh ở Trung Quốc ở lại Trung Quốc. Các cải tiến từ châu Âu ở lại châu Âu.
Công nghệ thay đổi cuộc sống lan rộng từ Đông sang Tây
Sự thay đổi này diễn ra sau cuộc xâm lược của Mông Cổ vào châu Âu, khi những công nghệ thay đổi cuộc sống như in ấn và thuốc súng – vốn đã tồn tại hàng thế kỷ ở phương Đông – bắt đầu lan sang phương Tây. Tài liệu ghi lại rằng thuốc súng, được cho là phát minh từ thời nhà Hán ở Trung Quốc vào khoảng năm 140 sau Công nguyên, đã xuất hiện ở Trung Đông sớm nhất vào năm 1240, chưa đầy 10 năm sau khi Đế chế Khwarazmia sụp đổ. Lần đầu tiên thuốc súng được nhắc đến ở châu Âu là trong văn bản Opus Majus năm 1267 của Roger Bacon.
Người Mông Cổ, theo quy luật, giết tất cả những ai không chịu đầu hàng. Ngược lại, họ thường tha mạng cho những người chấp nhận đầu hàng. Trong một bước đi khác biệt với hầu hết các nhà đế quốc khác, Thành Cát Tư Hãn đã thúc đẩy sự khoan dung tôn giáo, tạo ra một môi trường nơi các tín đồ Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Phật giáo và Đạo giáo có thể tự do bày tỏ đức tin của mình mà không sợ bị tổn hại. Thành Cát Tư Hãn cũng cho phép các nhà sư và nhà truyền giáo đi lại trên Con đường Tơ lụa, một quyết định cuối cùng đã mở đường cho những chuyến hành trình nổi tiếng của thương nhân người Venice, Marco Polo.
Tuy nhiên, sự tự do tôn giáo cuối cùng cũng góp phần vào sự phân rã của Đế chế Mông Cổ. Năm 1368, triều đại nhà Minh của Trung Quốc đã lật đổ triều đại Nguyên được Mông Cổ hậu thuẫn, một phần nhằm chống lại sự xâm lấn của Cơ Đốc giáo.
Sự hình thành nước Nga
Hiện tại, di sản lớn nhất của cuộc xâm lược Mông Cổ vào Đông Âu là vai trò của nó trong việc thống nhất các công quốc của Kievan Rus’ thành một cơ quan quản lý duy nhất. Trước khi người Mông Cổ đến, lãnh thổ bao gồm Ukraine, Belarus và miền tây nước Nga ngày nay gắn kết với nhau bởi một liên minh các thành bang lỏng lẻo. Thành bang mạnh nhất trong số này là Kyiv cho đến khi người Mông Cổ chiếm và phá hủy nó vào năm 1240.
Dưới sự cai trị của người Mông Cổ, một công quốc khác – Đại Công quốc Moscow – đã nổi lên như trung tâm văn hóa, tôn giáo và quân sự mới của khu vực. Chính Moscow sau đó đã lật đổ người Mông Cổ, sử dụng chiến thắng này để thành lập một đế chế của riêng mình: Nga Sa hoàng.
Sự sụp đổ của Kyiv và sự trỗi dậy của Moscow – hai sự kiện có sự tham gia trung tâm của người Mông Cổ – chiếm vị trí đặc biệt trong huyền thoại về sự vĩ đại của nước Nga mà chính quyền Vladimir Putin đã sử dụng để biện minh cho cuộc xâm lược Ukraine. Với cách trình bày một phiên bản đơn giản hóa của quá khứ xa xưa, Putin đã gọi Kyiv là mẹ của các thành phố Nga, của một dân tộc được định mệnh để chống lại các mối đe dọa quốc tế, từ những người con của Thành Cát Tư Hãn cho đến các thế lực đế quốc Mỹ.
Hậu quả tại Hungary
Đại Công quốc Moscow không phải là xã hội duy nhất mạnh lên nhờ cuộc xâm lược Mông Cổ vào châu Âu. Sau khi sống sót qua đợt tấn công đầu tiên vào đất nước mình, Vua Béla đã thực hiện một loạt cải cách quân sự để chuẩn bị cho các cuộc tấn công trong tương lai. Ông ra lệnh xây dựng các pháo đài dọc sông Danube, nơi quân lính của ông đã giữ chân quân Mông Cổ trong 10 tháng ấn tượng. Ông cũng hợp tác với các Hiệp sĩ Hospitaller – một dòng tu quân sự Công giáo thành lập tại Jerusalem – để xây dựng các lâu đài tại những vùng dễ bị tổn thương và thưa dân nhất của vương quốc, bao gồm cả Transylvania.
Khi các đoàn quân Mông Cổ trở lại vào năm 1285, ngựa của họ đã va phải các bức tường bất khả xâm phạm của các pháo đài mới được Béla xây dựng. Một lần nữa, những kẻ xâm lược buộc phải từ bỏ cuộc chiến mà chính họ đã khởi xướng – nhưng lần này, họ ra đi mãi mãi.