Nguyễn Nam Trân | Đồ Nhiên Thảo | Chương 06

Những tùy bút cổ điển của Nhật Bản mà mình yêu thích vì nhờ đó mà đã đọc được những người Nhật mỗi ngày gặp nhau ngoài đường phố dù không cần trao đổi qua lời nói.

 · 74 phút đọc.

Những tùy bút cổ điển của Nhật Bản mà mình yêu thích vì nhờ đó mà đã đọc được những người Nhật mỗi ngày gặp nhau ngoài đường phố dù không cần trao đổi qua lời nói.

Những tùy bút cổ điển của Nhật Bản mà mình yêu thích vì nhờ đó mà đã đọc được những người Nhật mỗi ngày gặp nhau ngoài đường phố dù không cần trao đổi qua lời nói.

Lời Nói Đầu

Những lúc rỗi rảnh đến nhàm chán [92], từ sáng đến chiều, ta đối mặt với nghiên mực, đang nghĩ chuyện này bắt sang chuyện khác, mặc cho ý tưởng trào ra đầu ngọn bút. Thấy mình thật vớ vẩn!

Đoạn 47: Chuyện người đi lễ chùa Kiyomizu [326]

Một người kia, nhân khi đi hành hương chùa Kiyomizu, làm bạn đồng hành với một ni sư lớn tuổi. Suốt đoạn đường, vì thấy bà ta lẩm bẩm hoài mấy chữ Kusame, kusame [327], ông ta mới hỏi:

Sư bà ạ, tại sao cứ lặp đi lặp lại mấy câu đó thế?

Bà kia chẳng nói chẳng rằng, tiếp tục lẩm bẩm. Bị hỏi đi hỏi lại mấy lần, bà ấy mới bực mình giải thích:

Ông cứ lải nhải! Khi nào mình bị hắt hơi [328] phải đọc câu thần chú này thì mới khỏi chết. Công tử mà tôi là vú em đang tu học trên chùa Hieizan [329] Tôi lo bây giờ trên ấy cậu ấy có đang nhảy mũi hay không nên mới khấn khứa như thế đấy!

Ở đời có lẽ cũng hiếm người biết bày tỏ tấm lòng tận tụy như bà này [330]

Đoạn 48: Ngài Mitsuchika [331] đến giảng kinh cho thái thượng hoàng.

Quan thượng khanh Mitsuchi [332], giữ nhiệm vụ chấp sự giảng kinh Tối Thắng Vương [333] trong cung, khi đến ngự sở của Thái Thượng Hoàng [334] để thuyết giảng, lắm lúc được vời tới trước mặt người và cùng ngự thiện. Lần nào, sau khi nhuếnh nhoáng đụng đũa vào tất cả các món xong, ông ta cũng đẩy quách cái mâm nhiều tầng chất những đồ ăn đã nếm vào sau rèm, rồi cứ thế cáo lui. Mấy nữ quan phục dịch không bằng lòng bảo:

Chao ôi, người sao mà bẩn thế. Muốn bắt ai dẹp vào mấy thứ này đây! [335]

Thái thượng hoàng, ngược lại, chỉ biết cảm thán:

Ấy, cách ăn uống của bậc thức giả khác phàm là như thế. Không ai sánh với ông ấy được đâu! [336]

Đoạn 49: Đợi già đến mới tìm học đạo

Không nên đợi đến lúc về già mới bắt đầu tu đạo Phật, vì sẽ không còn kịp nữa. Hãy xem những ngôi mộ cổ kia, toàn của người chết trẻ.

Ngã bệnh lúc nào không biết, rồi phút giây sắp vĩnh biệt thế gian mới ý thức được những sai lầm của đời mình. Chuyện gọi là sai lầm có gì lạ đâu: chuyện đáng lẽ phải làm bây giờ lại để sau rồi tính, chuyện thủng thỉnh suy nghĩ được thì hấp tấp làm ngay, chuyện đã qua mất rồi, cuối đời còn đứng đó mà tiếc. Lúc ấy có hối thì được gì nào?

Chỉ nên ghi lòng tạc dạ là cái chết đeo sát bên ta, có thể xảy ra bất cứ lúc nào, và không giây phút nào được quên điều đó. Nếu sống và hiểu được như thế, ta sẽ không có gì tiếc nuối với cuộc đời và ngày càng vững lòng chuyên tâm theo con đường của Đức Phật.

Sách Ojo Juuin của ngài Yogan chùa Zenrin [337] kể là xưa kia có bậc cao hiền, khi khách đến nhà, muốn bàn luận với ông về những điều cần thiết thì bỗng nghe ông ta trả lời:

Bấy giờ tôi còn có việc gấp như lửa cháy, gấp lắm, trước mắt, phải làm tức khắc! [338]

Rồi bịt tai, cất tiếng niệm Phật. Rốt cục, ông được vãng sanh cực lạc như ý nguyện.

Ngoài ra, còn có nhà tu hành tên Shinkai [339], vì thấy cõi tam giới lục đạo (tức cõi đời) quá đỗi vô thường, cả chuyện yên tâm ngồi xuống cho đàng hoàng thôi ông cũng không sao làm được, nên lúc nào cũng ở trong tư thế lom khom chồm hổm (cho dễ bề di động).

Đoạn 50: Hồi năm Ocho [340] từ xứ Ise

Khoảng niên hiệu Ocho, có gã đàn ông từ vùng Ise lên kinh đô, dắt theo một người đàn bà hóa quỷ [341] Suốt hai mươi ngày đêm, hôm nào cũng vậy, người ở vùng Shirakawa [342] và kinh đô lấy cớ đi xem quỉ, làm náo loạn khắp nơi. Họ đồn đại ầm ĩ nào là:

Hôm qua quỉ nó vừa lên chơi trên chùa Saionji [343],_ hôm nay thế nào nó cũng ghé qua cung của thái thượng hoàng. Giờ đây chắc nó phải đang ở chỗ này, chỗ nọ…_

…Tuy chẳng hề thấy ai lên tiếng xác nhận:

Chính mắt tôi trông thấy nó.

Thế mà không lấy có một người cho lời đồn đại về quỷ là chuyện bịa. Bất luận sang hèn, ở đâu thiên hạ cũng chỉ bàn tán có chừng ấy.

Thời gian đó, một hôm nhân ta trên đường đi từ Higashiyama về phía viện Agoi, thấy từ đại lộ Shijo cho đến phía bắc, người người đang ùn ùn chạy về hướng đó. Họ xôn xao:

Quỷ đang ở khu giữa Muromachi với Ichijo ấy!

Đứng trên mạn sông Imadegawa mà dòm thử xem thế nào thì thấy chung quanh chỗ khán đài đặc biệt dựng lên cho thái thượng hoàng ngự (khi đi xem hội Kamo), thiên hạ đã đứng chật nghẹt, đi qua không lọt. Nghĩ rằng như thế thì cái tin đồn kia không phải là chuyện dựng đứng, bèn xin phép người ta cho đến nơi xem tận mắt. Mới hay ra chẳng có ai trông thấy quỷ bao giờ. Thế mà thiên hạ cứ huyên náo mãi đến chiều tối, trước khi tan đám còn sinh ra những chuyện gây gổ đáng tiếc nữa.

Sau đó, hình như nhiều người mắc bệnh cảm mạo mất hai ba hôm. Vì vậy có kẻ bàn:

Cái tiếng đồn vô căn cứ về ma quỷ kia không hiểu có phải là điềm gở báo trước trận dịch đó hay không!

Đoạn 51: Đầm nước của điện Kameyama

Muốn đem nước từ ngoài sông Ôi vào đầm nước của điện Kameyama [344], dân làng Ôi [345] được lệnh làm guồng dẫn nước. Người ta chu cấp cho họ tiền nong hậu hĩ để làm việc đó. Phải mất một thời gian mới làm xong, đem ra sử dụng. Thế nhưng, guồng nước chẳng chịu quay cho. Sửa tới sửa lui mà đâu vẫn hoàn đấy, guồng vẫn không mảy may nhúc nhích.

Lúc đó mới gọi bọn người làng Uji [346] đến và ra lệnh cho họ làm guồng nước. Bọn người làng này thoăn thoắt dựng lên một cái xong ngay và lần này, guồng nước quay như mọi người mong muốn. Cảnh nước được dẫn vào chan hòa trong cung trông thật đẹp mắt.

Mới hay muôn sự, kẻ mà thạo nghề [347] thì bao giờ cũng được việc.

Đoạn 52: Có nhà sư chùa Ninna [348]

Ở chùa Ninna [349], có một vị sư, già rồi mà chưa có lần nào đi tham bái đền Iwashimizu [350] Đó là điều ông canh cánh bên lòng. Một hôm nhớ ra, mới đơn thân lội bộ [351] đến đó hành hương. Thế nhưng sau khi xem cảnh chùa Kyouraku và đền Kora [352] xong, chắc mẩm là nguyện ước đã đạt thành, bèn ra về.

Đến nhà, ông quay sang nói với tăng chúng:

Chuyện tôi bao năm ước nguyện, bây giờ mới thực hiện được. Quả là một ngôi đền tôn nghiêm, hơn cả tiếng đồn về nó. Có điều khó hiểu là thiện nam tín nữ hành hương xong rồi, ai nấy cũng nhắm núi mà trèo lên nữa. Mình cũng tự hỏi trên đó không biết trên đó có gì chăng? Thế nhưng lại nghĩ mục đích của mình là đi thăm đền thần chứ phải leo núi đâu nên tôi chẳng lên tới đỉnh ngắm cảnh làm gì.

Dẫu là việc nhỏ nhưng có người hướng dẫn phải hay hơn không!

Đoạn 53: Lại chuyện nhà sư khác ở chùa Ninna.

Đây cũng là chuyện một nhà sư chùa Ninna. Có một chú tiểu đến tuổi thành sư, người ta mới tổ chức ăn mừng để chú ta khỏi còn luyến tiếc khi giã từ hình dáng thiếu niên [353] Trong buổi lễ, cả bọn mới rủ nhau làm trò múa hát. Một nhà sư trong đám, đã say khướt, lấy một cái vạc con có ba chân kiếm ở đâu bên cạnh đem chụp ngược lên đầu mình. Vì cái vạc không trùm được vững vàng nên ông ta mới ấn mũi mình xuống để nhét cho được cả khuôn mặt vào trong đó, rồi bước ra múa. Cả bọn cùng mâm tiệc say sưa nhìn, tán thưởng [354]

Múa được một hồi, nhà sư mới nghĩ đến chuyện gỡ cái vạc đang đội ra nhưng không tài nào làm được. Khi tiệc rượu tàn và tỉnh cơn say, mọi người mới tìm cách để tháo nó nhưng đành chịu phép. Trong khi đang xoay cách này thử cách khác, da chung quanh đầu nhà sư bị lột ra, máu me ròng ròng rồi sưng tấy lên làm cho cái vạc càng lúc càng khó tháo và ông bị nghẹt thở. Lúc đó, bọn họ định đập vỡ cái vạc ấy ra nhưng đâu có dễ dàng như vậy. Ông kia không chịu nỗi tiếng đập inh tai nên rốt cục họ phải ngưng. Hết còn biết phải làm sao, bọn họ đành trùm một tấm màn vải để dấu cái đầu nhà sư, lúc này giống như đang mọc ba cái sừng. Họ đưa ông ta cây gậy chống (để lần bước) rồi nắm tay kéo đến nhà một danh y ngoài phố Kyoto. Dọc đường, thiên hạ nhìn theo ngán ngẫm. Khi vào nhà ông lang, cảnh tượng ông lang và nhà sư đối diện với nhau, trông kỳ khôi hết sức. Ông lang bảo:

Chứng trạng như ông đây chưa có sách thuốc nào đề cập tới mà từ xưa, không thấy ai truyền lại phương pháp hay để chữa chạy!

Hết nước, nhà sư ấy đành phải lui về chùa Ninna. Bà mẹ già và thân thuộc xúm xít đầu giường khóc thương thảm thiết [355] nhưng có lẽ tiếng khóc ấy chẳng lọt được vào lỗ tai của ông ta.

Trong khi mọi sự diễn tiến như thế, có kẻ đề nghị:

Cho dù sứt tai sứt mũi, chắc gì đã chết. Thôi thì chúng mình hợp sức mà kéo bật ra hộ ông ấy!

Họ bèn lấy lõi rơm mịn chèn chung quanh xen kẻ giữa cái vạc và lớp da đầu của nhà sư rồi hè nhau lấy hết sức kéo tưởng chừng giật đứt cả cái đầu. Mũi và tai bị bay mất chỉ còn sót lại mấy cái lỗ đánh dấu sự kiện khủng khiếp đó nhưng dù sao mọi người cũng đã kéo bật cái vạc ra được. Mạng ông ta tuy có thoát cảnh nguy ngập nhưng vết thương có lẽ chẳng bao giờ lành.

Cả bọn cùng mâm tiệc say sưa nhìn, tán thưởng.

Đoạn 54: Chú tiểu xinh trai ở điện Omuro

Ở điện Omuro [356] tức nơi cư ngụ của các vị hoàng tử ra tu ở chùa Ninna, có một chú tiểu lanh lợi xinh trai [357] Bọn tăng nhân nghịch ngợm muốn lập kế hoạch rủ rê chú ta ra ngoài chơi. Họ mới hội ý với bọn du tăng (tức tăng sĩ chuyên diễn trò mùa hát) [358], ra công làm một vật đựng đồ ăn thức uống trông như cái hộp cơm trang trí thật hoa mỹ, mang ra một chỗ nên thơ ở vùng đồi Narabigaoka [359] và chôn dưới đất. Trên đó họ còn rải phủ lên một lớp lá hồng (tức lá phong mùa thu trở màu đỏ) để che dấu. Thế rồi, làm bộ tự nhiên như không có chuyện gì, họ lên điện Omuro nơi chú tiểu ấy ở để thăm và khéo léo mời được chú đi chơi.

Bọn tăng nhân làm ra vẻ hết sức hớn hở, tung tăng dạo bước khắp nơi, rồi lần bước đến chỗ có thảm rêu xanh nơi dấu hộp thức ăn dưới lớp lá. Họ cùng nhau ngồi xuống.

Chao ơi, mệt quá! À này, đây có lá hồng, phải chi được người nào hâm rượu [360] cho mình nữa thì hết ý nhỉ! Sư huynh nào xưa nay cầu gì được nấy, thử khấn Trời Phật hộ cái nào!

Nói với nhau xong, họ tiến tới gần gốc cây nơi chôn hộp thức ăn, làm bộ lần tràng hạt, bắt quyết, [361] đọc chú, giở đủ mọi thứ lăng nhăng. Cuối cùng, họ cào hết xác lá lên xem nhưng không tìm ra được vật gì cả. Tưởng là mình nhớ nhầm chỗ, cả bọn lại tiếp tục xông xáo đào bới tiếp khắp nơi trên đồi. Không vẫn hoàn không. Thực ra thừa lúc cả bọn rủ nhau lên Omuro, có người trông thấy họ dấu cái hộp đã cuỗm nó đi mất. Bọn tăng nhân không biết nói gì để chữa thẹn, buông lời chửi bới lẫn nhau, rồi giận dữ quay về.

Mới thấy việc gì bày trò quá công phu thì kết quả dễ trở thành tẻ ngoét.

Đoạn 55: Cất nhà

Về cách cất nhà, phải cất sao để sống cho thoải mái vào mùa hạ. Mùa đông, sống ở đâu cũng được nhưng vào mùa hạ, không có gì khó chịu hơn nếu nếu nhà mình ở không thích hợp với khí hậu oi bức.

Dòng suối giả dẫn nước nếu sâu sẽ không mát. Nước cạn và luôn luôn chảy cho ta cảm giác mát mẻ hơn nhiều. Để có thể thấy (đọc) những vật (dòng chữ) nhỏ, phòng trang bị cửa kéo (ra kéo vào được) sáng hơn và tiện lợi hơn là phòng có liếp che. Nếu trần cao, khi mùa đông đến, sẽ lạnh và ánh đèn không đủ tỏa sáng hết cả gian. Người ta thường đồng ý với nhau rằng, trong việc xây cất nhà cửa, nếu có làm dôi ra vài chỗ trống không mục đích gì thì cũng rất hay, bởi vì ngắm thôi đã đủ thích mà có khi còn dùng được vào trăm thứ việc.

Đoạn 56: Người lâu ngày gặp lại

Gặp lại người lâu ngày xa cách, thật là khó chịu khi chỉ nghe anh (cô) ta thao thao bất tuyệt đủ thứ chuyện đã xảy ra cho bản thân trong khoảng thời gian đó. Dù trong chỗ thân tình đến đâu [362], bẵng đi ít lâu mới gặp nhau, thường thường phải biết giữ ý một chút chứ nhỉ? Người thiếu nhân cách thì dù mới bước chân đi đâu đó chút xíu thôi, khi trở về đã mê mải nói gần hụt hơi về những điều gây ấn tượng cho anh (cô) ta như chuyện đó đang xảy ra trước mắt.

Còn những người có phẩm hạnh thì thái độ nói chuyện của họ là cho dù ở chỗ đông người, họ chỉ hướng về một người mà nói, những người khác tự nhiên sẽ lắng tai chăm chú nghe theo. Kẻ thiếu nhân cách không thế đâu! Anh (cô) ta chẳng cần biết có đối tượng nào đang ở trước mặt, cứ chen vào giữa đám đông, kể huyên thiên khoái trá những chuyện như mình đang thấy trước mắt, làm cho ai nấy đều phải phá lên cười. Ta còn có thể định được giá trị cao thấp của người nghe ở chỗ họ có tỏ ra điềm đạm khi được kể cho nghe những chuyện hay và ý nhị hoặc cười ầm lên trước những chuyện tưởng là thích thú nhưng thực ra ngốc nghếch.

Ngoài ra, không gì khó chịu cho ta hơn là trong những dịp đánh giá về dáng dấp đẹp xấu hay trình độ văn hóa cao thấp của ai đó mà trong đám bình luận gia có học vấn, có kẻ cứ đem cái tôi ra làm tiêu chuẩn để so sánh.

Đoạn 57: Bình luận thơ hay thơ dở

Trường hợp có sự tương phản giữa giai thoại thi ca người ta dẫn ra để tô vẽ những bài thơ waka trong khi chính bản thân các bài thơ ấy lại dở là cái dễ làm mình cụt hứng hơn cả [363]

Nếu là người hiểu biết chút ít về việc sáng tác thơ thì không ai tha thiết đến cái thứ giai thoại ấy.

Nói chung, gặp phải những ai không rành rẽ về một lĩnh vực nào mà thích phát biểu [364], dù mình là kẻ bàng quan cũng cảm thấy bực bội, không muốn nghe.

Đoạn 58: Nếu có lòng cầu đạo

Nếu có lòng cầu đạo thì sống ở đâu lại chẳng được. Ở ngay trong nhà mình, tiếp xúc với người chung quanh như thường mà vẫn dốc lòng tu Phật để kiếp sau được siêu sinh thì có gì bất tiện đâu!

Nhưng những kẻ tuyên bố kiểu đó tỏ ra không hiểu tí gì về cách tu để vãng sanh cực lạc [365] Nói trắng ra, nếu đã biết rằng cuộc đời là mong manh bèo bọt và phải tìm cho được sự giác ngộ thì vui thú gì mà họ còn sáng tối theo hầu chủ quân hay dồn hết tâm lực lo chuyện gia đình. Cái tâm vốn biến đổi dễ dàng theo sự lôi kéo của nhân duyên [366], nếu tâm ta không thanh tĩnh thì việc tu hành đạo Phật sẽ rất khó khăn.

Người thời nay đâu có được cái bản lãnh của cổ nhân nên dù họ có muốn vào chốn núi rừng [367], nếu không chuẩn bị tinh thần để chịu đựng đói khát, chống cự mưa bão thì không tài nào sống nổi. Đôi khi, ta còn thấy họ bị những dục vọng thế gian lôi kéo mất. Nói thì nói vậy, luận điệu phê phán: Nếu thế, việc lánh đời chẳng có ý nghĩa. Đã biết là không thực hiện được gì cả, cớ sao cứ phải lánh đời! thì ta cũng không thể chấp nhận. Bởi lẽ con người một khi đã vứt bỏ thế gian và chọn đường tu Phật thì trong lòng có dậy lên sự ham muốn chăng nữa, lòng tham dục [368] ấy cũng không thể sánh bằng lòng dục mãnh liệt của người đời. Đồ ngủ bằng giấy, áo xống sô gai, đồ ăn vỏn vẹn một bình bát, canh nấu bằng rau dại… những thứ họ cần chỉ có chừng đó thì dù phải ăn xin ai, họ cũng chả gây tốn kém cho thiên hạ bao nhiêu. Những thức đó có thể được người ta cho dễ dàng và khi đã có là lòng họ mãn nguyện ngay. Hiểu rằng mình là kẻ đã lánh đời nên họ cũng biết hổ thẹn và cẩn thận lấy thân [369], dầu có tí ti ham muốn nhưng hầu như trong mọi trường hợp, đều biết lánh điều ác để hướng thiện.

Đã được sinh ra làm người [370] và muốn xứng đáng với danh vị ấy, không gì tốt hơn là chấp nhận mọi khó khăn để có thể từ bỏ thế gian [371] Nếu bị dục vọng che lấp hoàn toàn và không lập chí đi theo con đường giác ngộ [372] thì dù mang tiếng làm người, có khác gì muông thú [373] đâu!

Đoạn 59: Những ai muốn được cứu

Những ai lập chí đi theo đường Đại Ngộ phải dẹp ngay tức khắc, không đoái hoài gì đến những điều lòng mình thiết tha, tưởng như không làm là không được.

Hượm cho một chút để tôi làm nốt chuyện này đã!

Bề gì tôi cũng bỏ đi tu mà, cho tôi tính xong vụ này đi!

Nếu cứ giữ nguyên thế này, không khéo thiên hạ rủa tôi mất. Để họ khỏi phiền trách, cho tôi thanh toán gọn ghẽ việc này rồi tôi sẽ đi tu!

Chuyện này chờ đợi đã quá lâu rồi, nán thêm một tí nữa đến khi mọi sự xong xuôi cũng chẳng mất thời giờ lắm đâu. Thủng thẳng rồi hãy quyết định!

Lý luận kiểu đó sẽ làm cho những việc coi như là bổn phận tất nhiên sẽ chồng chất lên nhau và chuyện phải làm nối tiếp không bao giờ cho dứt. Tóm lại, sẽ chẳng bao giờ có ngày phát nguyện đi tu. Thường thường chỉ cần biết suy xét một chút, ta sẽ thấy tâm tư và hành động của người sống ở trên đời đều như thế cả.

Khi lửa đã cháy tới nhà hàng xóm rồi, người đáng lẽ phải tị nạn ngay không thể còn bảo:

Lửa ơi, chờ ta thêm chút xíu!

Nếu muốn cứu lấy mình thì mặc quách hổ thẹn, thây kệ dèm pha, vứt bỏ cả tài sản để mà lánh cho nhanh. Tính mệnh là cái vô tình, nó chẳng đợi lúc mình tiện hay không tiện. Sự chết tập kích ta còn nhanh hơn nước, lửa và rất khó thoát thân. Lúc đó không lẽ vì cho rằng cha mẹ già, con cái thơ dại, ơn của vua, tình với người là những cái khó lòng dứt được mà còn khăng khăng giữ lấy hay sao? [374]

Đoạn 60: Vị pháp chủ Joshin ở viện Shinjo

Ở viện Shinjo [375] chùa Ninna, có một pháp chủ đạo đức lại học rộng tên gọi Joshin Suzu [376] Ông có món khoái khẩu, một loại khoai tên gọi inogashira [377], ăn mãi không biết chán [378] Ngay cả khi ngồi ở bục giảng kinh, bên cạnh đầu gối phải có một bát lớn đầy ắp khoai để vừa nhấm nháp khoai vừa đọc sách. Gặp lúc mắc bệnh, mượn tiếng chữa trị, lui vào thiền phòng sống một mình có khi bảy ngày, có khi hằng mười bốn ngày liên tiếp, chọn những củ khoai thượng hảo hạng, ăn thực là nhiều. Bệnh nào cũng phải lành. Ngược lại, ông chẳng mời ai ăn khoai mà chỉ ăn một mình. Xưa kia ông hết sức nghèo, tôn sư của ông khi viên tịch có để lại cho hai trăm quan tiền [379] và một thiền phòng. Thế nhưng, ông đã bán thiền phòng với giá một trăm quan, quyết định dùng tất cả ba trăm quan để ăn khoai [380] Ông bèn để nó cho một người quen biết ở kinh đô giữ hộ, mỗi bận cứ trích ra mười quan một, gửi cho ông. Ông chỉ dùng tiền vào việc mua khoai xơi chứ không chi dụng món gì khác. Thế mà chẳng bao lâu, món tiền đó đã sạch ráo. Thiên hạ mỉa mai:

Đã nghèo đến thế, được ba trăm quan tiền vào tay mà lại tiêu béng kiểu này thì quả là người đạo đức cao dày!

Có lần Joshin gặp một nhà sư, ông đặt cho người đó cái tên diễu là Shironuri [381]. Khi người ta hỏi shironuri là vật như thế nào thì ông bảo:

Tôi cũng chẳng biết vật ấy là gì nhưng nếu có thì nó phải giống cái mặt ông sư nọ.

Tăng quan Joshin mặt mũi sáng láng, lại có sức mạnh, ăn khỏe, chữ đẹp, học vấn cao, lại giỏi đối đáp. Ông là người tài mạo hơn người, trong chốn thiền lâm được kính trọng, được xem như một danh tăng đáng đại diện cho đồng đạo (phái Chân Ngôn). Thế nhưng ông lại là người khác đời, không coi trọng thường thức, làm gì cũng cứ làm theo ý mình chứ không hề cư xử rập khuôn đường lối của ai cả. Sau những buổi làm xong pháp sự ra đến chỗ thụ trai, không đợi cho người ta bày biện thức ăn xong xuôi, hễ thấy trước mặt mình đã đặt xong cỗ là cứ một mình xơi trước.

Khi nào muốn về, tự tiện đứng lên rời khỏi chiếu tiệc. Dù là cơm trưa hay cơm tối, không bao giờ ăn cùng giờ với mọi người. Khi muốn ăn thì dù cho nửa đêm hay hừng sáng cũng ăn, còn lúc buồn ngủ, giữa ban ngày cứ việc đóng kín cửa phòng, cho dù có chuyện gì quan trọng, cũng không thèm lắng tai nghe người ta nói. Khi đã mở mắt ra rồi, mấy đêm cũng không cần ngủ, cứ đi lòng vòng ngâm thơ để thanh tâm thoát trần. Thật là một lối sống không giống ai. Thế nhưng, chẳng thấy ông ta bị ai ghét cả, mọi việc, người ta chỉ đưa mắt nhìn một cái rồi thôi. Như thế, ông này có phải là người có đạo đức cao hay không đây? [382]

Đoạn 61: Tục lệ ném niêu đất khi sinh đẻ

Tục ném niêu đất từ trên nóc điện xuống (cho vỡ) khi các bà mệnh phụ phu nhân sinh con [383] không phải là một tập quán thông thường. Chỉ được dùng như một thứ bùa phép giải nạn mỗi khi thời gian hậu sản [384] của họ kéo ra quá dài mà thôi. Trường hợp mẹ tròn con vuông không cần phải làm.

Đây là một tục lệ xuất phát từ dân gian cho nên không hiểu nguồn gốc thế nào. Loại niêu đất dùng trong trường hợp này là niêu do làng Ohara [385] sản xuất và mang lên. Trong những tranh xưa còn lưu truyền lại như bảo vật [386], có vẽ cảnh đập niêu khi người nào đẻ khó.

Đoạn 62: Vẻ ngây thơ của công chúa Ensei

Bà Enseimonin [387] lúc còn thơ, có nhờ người lên hầu thái thượng hoàng [388] chuyển giùm mấy vần thơ waka (bà gửi cho phụ vương như sau):

Futatsu moji,

Ushi no tsuno moji,

Sugu na moji,

Yugamu moji to zo,

Kimi wa obituary.

Một chữ có hai nét,

Một chữ giống sừng bò,

Chữ thẳng, chữ cong vòng,

Xếp thành lòng nhớ bố. [389]

Đoạn 63: Chủ tế buổi lễ Goshichnich

Tập quán điều động các vũ sĩ để bảo vệ vị tăng chủ chùa Toji chủ tế cuộc lễ Gosh Ichinichi [390] bắt nguồn từ xưa khi có lần bọn đạo tặc gây rối loạn tấn công chủ tế trong cuộc lễ. Những người lính này được gọi là tonoibito (lính túc trực) và dần dần họ được chỉ định giữ trật tự cho buổi lễ. Vì sự hung kiết của một năm có thể nhìn thấy trước qua cuộc hành lễ cho nên việc sử dụng những vũ sĩ cảnh bị vào việc này là chuyện không thỏa đáng [391]

Đoạn 64: Xe bò có treo tấm trướng năm sợi dây da

Có một vị bảo ta hay là không phải chỉ có người thuộc giai cấp đặc biệt được đánh loại xe bò mà trước rèm có treo tấm trướng kết bằng năm sợi dây da [392] Thật ra, loại xe dành cho bất cứ ai mà gia đình đã đạt được chức vị những nhà quan cực phẩm [393] triều đình.

Đoạn 65: Mũ mãng thời nay

Gần đây, chiều cao của những cái mão quan có vẻ cao lên hẳn so với trước kia. Những kẻ có hộp đựng mũ kiểu xưa phải gắn thêm vè hai bên hộp để hợp với loại mũ mới [394]

Đoạn 66: Đại thần Okamoto, chức Kanpaku [395]

Ngài Okamoto [396], chức Kanpaku, có lần đem một cành mơ hồng kèm theo đôi chim trĩ [397], ra lệnh cho người nuôi dạy chim ưng trong phủ là Shimotsukeno no Take Katsu [398] gắn đôi chim trĩ lên trên cành hoa cho mình. Lúc đó Taketatsu bèn thưa:

Thần không biết cách gắn chim với hoa. Hơn nữa, cũng không nghe nói đến việc gắn một cặp chim lên cùng một cành.

Nghe thế, ngài Okamoto bèn đem chuyện đó hỏi đầu bếp và những người chung quanh mà ông nghĩ là rành rẽ, nhưng rốt cục đành gọi Taketatsu trở lại:

Thôi thôi, cứ gắn cho ta theo ý nhà ngươi cũng được!

Lúc đó, Taketatsu mới gắn chim vào một cành mai không hoa, và chỉ gắn một con thôi, rồi dâng lên.

Taketatsu trình bày [399] như thế này:

Nếu ghép chim lên cành cây, phải ghép lên cành gỗ tạp hay một cành mai lúc hoa vừa mới chớm nụ hoặc đã rụng hết. Cành tùng năm lá cũng dùng được. Chiều dài của cành phải cỡ độ sáu hay bảy shaku [400],_ lại dùng dao mà cắt xéo xuống ở đầu cành, phía đối diện thì tiện ngược chiều lên ngắn khoảng năm phân_ [401] Đặt con chim trĩ vào khoảng giữa cành, gắn chân chim lên một nhánh và thân nó lên một nhánh khác [402] Để nối hai chỗ với nhau, phải dùng loại dây tử đằng lá rủ chưa ra hoa. Phải cắt đầu sợi dây sao cho vừa vặn với độ dài của cái cánh giả [403] và uốn cong nó lại như sừng bò.

Buổi sáng lúc tuyết đầu mùa rơi, (người dâng chim) vác cành cây lên vai, đỉnh đạc uy nghiêm từ cửa chính khu vườn đi vào chầu [404] trong hoàng cung. Thế rồi, (người đó) sẽ bước từ tốn trên lối nhỏ trải đá bên hiên, không để lại dấu vết trên màu trắng mới tinh khôi, vặt một ít nhẹ lông trên lưng chim rải trên mặt tuyết và dựng cành cây lên lan can cao nối hai tòa nhà của ngự sở. Nếu được (bề trên) ban lộc gì thì lại đặt nó lên vai [405], làm lễ tạ ơn rồi ra về. Trong trường hợp gọi là tuyết đầu mùa nhưng tuyết rơi ít quá không đủ che mũi giày thì không vào dâng chim. Tập tục vặt lông lưng chim để rải ra tượng trưng việc chim ưng săn hay tấn công con mồi bằng cách quặp phần yếu ở cuối lưng, là (nghi thức) để tỏ ra rằng chính chim ưng (thiên hoàng) nuôi đã thực sự bắt được con mồi này. [406]

(Taketatsu còn nói):

Việc người ta không gắn chim trĩ vào cành hoa, tất phải có cớ. Một đoạn trong Truyện Ise [407] nhắc đến việc người kia, vào khoảng tháng chín (đầu thu), đem gắn con chim trĩ lên một cành mơ giả để đi tặng kèm theo một vần thơ ý nói:

Để dâng lên người,

Bẻ một cành mơ.

Hoa chẳng lựa mùa,

Như lòng không đổi.

Thế nhưng đâu có việc gì phải phân bua bởi vì hoa ở đây chỉ là hoa giả [408]

Đoạn 67: Hai điện nhánh Iwamoto và Hashimoto của thần xã Kamo

Hai điện nhánh [409] Iwamoto [410] và Hashimoto [411] của thần xã Kamo [412] thờ hai nhà thơ Narihira và Sanekata làm thần. Người đi lễ thường nhầm lẫn thần của hai điện (vốn cất kề bên) với nhau. Có một năm, trong lúc đi thăm đền, tình cờ ta gặp một ông từ già giữ điện, mới chặn lại hỏi thăm về chuyện này thì ông cho biết:

Tương truyền người nào đi viếng ông Sanekata [413] thì khi đến con sông _ rửa tội _ Mitarashi [414] sẽ thấy bóng ma của ông ta in trên dòng nước. Đó là đền Hashimoto. Vì đền này gần dòng nước hơn là đền Iwamoto, cho nên tôi mới phân biệt được đó là nơi thờ ông ấy. Còn câu thơ mà Hòa thượng Yoshimizu [415] vịnh

Tsuki wo mede,

Hana wo nagameshi,

Inishie no,

Yasashiki hito wa,

Koko ni ariwara. [416]

Nơi đây người tao nhã,

Của một thời đã qua,

Ngắm trăng và trầm mặc,

Thương xót những mùa hoa.

Ngụ ý nói về đền Iwamoto, nơi vương tử Ariwara no Narihira [417] sau này đã trở thành thần. Thế nhưng những người (trí thức) như ngài chắc phải hiểu rõ vấn đề hơn chúng tôi nữa chứ!

Câu trả lời khiêm tốn [418] của ông làm ta cảm kích.

Có bà tên gọi Konoe [419] hầu ở phủ hoàng thái hậu Imadegawa [420] vốn có nhiều bài thơ được chọn đăng vào các tuyển tập soạn theo sắc chiếu. Bà ấy hồi còn trẻ có làm các tập trăm bài thơ [421], rồi dùng nước sông trước hai cửa đền để pha mực chép lại và dâng lên cúng thần. Bà rất nổi tiếng, nhiều người thích ngâm thơ bà. Còn được ái mộ vì tài thơ chữ Hán và tài đề tựa các thi tập [422]

Đoạn 68: Quan tuần kiểm họ Mỗ ở Tsukushi.

Ở vùng Tsukushi [423] có quan tuần kiểm [424] họ Mỗ chuyên lo tiễu trừ quân gian. Ông ta tin rằng củ cải là một thứ thuốc hay trị bá bệnh cho nên từ lâu năm sáng nào cũng nướng hai củ mà ăn.

Một hôm trong đồn binh, nhân lúc vắng người, kẻ địch đến bao vây tiến đánh. Bỗng thấy hai tráng sĩ không biết ở đâu xuất hiện, chiến đấu không tiếc tính mạng, đẩy lùi quân địch đi mất. Ông lấy làm ngạc nhiên, mới hỏi:

Thường ngày có được bái kiến hai vị bao giờ đâu, sao lại ra sức chiến đấu dũng cảm như thế. Chẳng hay quí ngài là ai vậy?

Họ bèn trả lời:

Thường ngày vẫn được ông đoái hoài. Chúng tôi chính là hai củ cải mà ông vẫn xơi mỗi sáng đấy ạ!

Nói xong thì biến mất. Nhờ lòng tin sâu sắc [425] như thế nên công đức có ngày được báo đền vậy.

Đoạn 69: Cao tăng Shosha

Ngài Shosha [426], một vị cao tăng nhờ công đức nhiều năm tụng kinh Pháp Hoa, đã đạt đến chỗ lục căn đều thanh tĩnh (nhờ đó, có thể nghe mọi thứ âm thanh). Một hôm trên đường du lịch, nhà sư dừng chân lại ở một căn nhà trọ, nghe tiếng sùng sục của những hạt đậu ninh dưới ngọn lửa chụm bằng vỏ đậu. Tiếng ấy bảo:

Sao ruột thịt với nhau mà chúng bay lại nhẫn tâm thiêu đốt chúng tao thế này. Bọn tao hận chúng bay lắm đấy!

Vừa xong, thấy vỏ đậu kêu lốp bốp khi bị lửa đốt và nhà sư nghe chúng nó trả lời:

Bộ chúng mày tưởng bọn tao thích như thế này lắm hay sao! Bị đốt bỏng cả mình mẩy như có làm gì khác được đâu. Đừng giận chúng tao chi nhá! [427]

Đoạn 70: Cuộc đi chơi Seisho Do năm Gen. ô [428]

Chuyện xảy ra vào dịp xa giá đi chơi Seisho Do [429] vào năm Gen. ô [430] nguyên niên nhân dịp lễ tạ ơn được mùa sau khi thiên hoàng đăng quang. Lúc ấy cây đàn tỳ bà Genji [431], bảo vật trong cung, đã biến đâu mất tích, quan đại thần Kikutei [432] phải dùng cây Bokuba [433] Sau khi yên vị, ông kiểm tra trục gắn dây đàn. Vừa lúc ấy, một trục bị sút ra. Tuy nhiên, đại thần đã lấy ngay hồ bằng cơm mà ông chuẩn bị sẳn trong áo trét lên gắn nó lại. Cho đến lúc tấu nhạc lên tế thần thì hồ vừa vặn khô, không gây trở ngại gì cho buổi lễ cả. Chẳng hiểu có thù hận điều gì mà nghe nói một người đàn bà [434] choàng cái áo lụa kazuki trong đám quan khách đã tiến gần đến chiếc đàn Bokuba, giật sút trục đàn ra và để hờ lại nó như cũ không cho ai biết.

Đoạn 71: Tên tuổi gợi ra hình ảnh

Nghe tên ai ta thường tưởng tượng ngay được hình ảnh người đó. Thế nhưng trên thực tế, khi gặp mặt mới biết khuôn mặt họ không giống những gì ta đã tưởng tượng. Nghe kể chuyện xưa cũng vậy, ta nghĩ ngay là chuyện ấy từng xảy ra ở chỗ này chỗ kia trong ngôi nhà cũ của người đó cũng như đang xảy ra trong ngôi nhà ta thấy trước mắt. Ngay đối với những nhân vật từng đóng vai trò nào đó trong câu chuyện, ta cũng hay ghép họ vào với người đang có mặt. Phải chăng đó là một hiện tượng khá phổ thông? [435]

Lại nữa, không hiểu vì sao, đối với lời nói của một người thời bây giờ đang đứng trước mặt ta, và chính tình cảm mà ta đang có, ta thấy như đã từng nghe, từng cảm thấy một lần đâu đó trong quá khứ rồi. Tuy không khẳng định được thời điểm nhưng nhất quyết điều đó đã xảy đến cho ta. Không lẽ đó là kinh nghiệm mỗi mình ta từng trải thôi sao? [436]

Đoạn 72: Những cảnh khó coi

Khó coi là những cảnh thế này! [437] Ngay chỗ mình ngồi mà chất dụng cụ bừa bãi. Cạnh nghiên mực lại bày bút tứ tung. Trong gian thờ Phật chưng tượng la liệt. Vườn thì để cây cỏ và đá quá nhiều. Trong nhà con cháu quá đông. Ngồi trước mặt ai mà lắm lời. Làm sớ để thỉnh nguyện thần phật điều gì mà chỉ dài dòng kể tốt về mình.

Cái tuy có nhiều nhưng nhìn vào không bực mắt họa chăng là sách vở đầy vun xe sách [438] và rác rưởi chất đống ở chỗ đổ rác mà thôi.

Đoạn 73: Chuyện người đời truyền tụng

Chẳng hiểu có phải vì sự chân thực không có gì hấp dẫn hay sao mà những chuyện thế gian truyền tụng thường là láo khoét [439]

Theo ngày tháng, mấy chuyện người ta đã thổi phồng rồi, nếu còn được mang đi kể tới kể lui ở những nơi xa xôi (người nghe không có phương tiện kiểm chứng), sẽ được vẽ vời thêm cho đặc sắc. Khi chúng được viết ra thì thiên hạ bèn chấp nhận như là chuyện thật. Những chuyện về tài nghệ phi thường của ai đó trong lĩnh vực này lĩnh vực nọ, nếu là người thô lậu, không phân biệt thực hư thì sẽ ca ngợi họ như thần thánh. Thế nhưng kẻ học thức không thể tin suôn những chuyện đó. Giữa đồn đại và sự thực hãy còn một khoảng xa ngăn cách.

Kẻ không để ý rằng mình đã đi xa sự thực, cứ để những điều dối trá tuôn ra ngoài cửa miệng thì thiên hạ sẽ biết ngay anh ta ăn nói không có căn cứ [440]. Hơn nữa, khi chính bản thân người kể cũng còn không tin mà thuật lại y như người khác kể cho mình, vênh váo [441] ra chiều mãn nguyện, thì lời nói dối ấy không phải là của anh ta [442]. Người đáng sợ là kẻ thuật lại một câu chuyện dối như là sự thật, đôi chỗ cố tình làm mù mờ một vài chi tiết, làm bộ như không nhớ chính xác những gì đã xảy ra, nhưng cẩn thận không để cho kết cấu câu chuyện thiếu ăn khớp [443].

Thường người ta không tích cực phủ nhận những lời nói dối đem lại danh tiếng cho mình [444].

Trong khi một số người nghe một cách thích thú một lời nói dối nào đó, nếu ta quyết định rằng mình không nên làm kẻ duy nhất lên tiếng phản đối:

Không, chuyện đó không xảy ra như thế đâu mà!

Vì xét rằng vô ích, thế rồi cứ im lặng ngồi nghe, vô tình ta sẽ thành một nhân chứng và do (sự mặc nhận) [445] đó, câu chuyện kia lại mang màu sắc đích thực hơn nữa.

Dù sao, ở đời đầy dẫy chuyện dối trá. Có điều nếu ta cứ xem cho là những chuyện tầm phào và không để tâm nghe chúng là tránh được phiền phức. Chuyện do bọn thấp hèn kể ra, có nhiều cái làm ta dựng đứng lỗ tai. Còn chuyện của những người đàng hoàng thường không có gì lạ lùng khó tin cả [446].

Nói thế thôi chứ còn những sự tích kỳ lạ chung quanh chư thần chư Phật, hay truyền kỳ về sự hóa thân của các Bồ Tát thì ta không cần phải nghi ngờ gì nữa. Ta chẳng điên rồ gì mà chấp nhận không suy xét về những hủ tục mê tín dân gian nhưng nếu bảo:

Ối chào, làm gì có chuyện đó!

Thì cũng không tốt. Nói chung, cứ để yên như chúng là chuyện có thực tuy không nhất thiết đặt sự tin tưởng của mình vào đó, không tỏ ra nghi ngờ một cách máy móc và cũng không cười cợt người tin.

Đoạn 74: Tụ tập như đàn kiến

Kiến tụ tập thành đàn [447], đi về mọi hướng đông tây nam bắc. Con người cũng thế. Đã sinh ra ở đời, có kẻ cao sang mà cũng có kẻ thấp hèn. Có người già, người trẻ. Mỗi một người đều có chốn ra đi, một mái nhà để trở về. Chiều tối đi ngủ, sáng mai thức dậy. Sống như thế để đeo đuổi mục đích gì đây? Thế mà người ta cứ muốn sống mãi sống hoài và thêm nhiều lợi lộc.

Lo lắng bảo trọng thân xác mình để đợi điều chi vậy? Đúng hẹn với ta thì chỉ có cái già và cái chết. Chúng nó đến mau tất tật và quá trình đó không hề ngừng lại dù một chớp mắt [448]. Trong khi chờ đợi nó đến, biết lấy gì để làm vui? Những kẻ đang đắm đuối trong mê muội thì chẳng sợ già, cũng chẳng sợ chết, ví dụ như khi bị danh lợi làm cho lòa mắt thì đâu chịu quay lại để thấy rằng giây phút cuối của cuộc đời đã đến sát mình rồi. Hơn nữa, những kẻ ngu muội lại hay lo lắng khổ sở về cái chết. Buồn cười là họ mong muốn sao cho tấm thân mình không bao giờ thay đổi [449] mà không biết rằng sự chuyển hóa của vạn vật là đạo lý của cuộc đời.

Đoạn 75: Những người khổ tâm vì ngồi không

Tâm trạng của những người thở than sầu khổ vì tháng ngày trống rỗng, không biết làm gì, nó ra sao nhỉ? Trong hoàn cảnh đó, (như trường hợp của ta thì nhờ) cái tâm không bị ngoại vật chi phối nên ta sẽ bằng lòng với cảnh một thân một mình.

Nếu sống mà chạy theo người đời, tâm ta dễ bị những kích thích của ngoại giới làm cho lầm lạc. Còn khi giao tiếp với người hay phải thổ lộ điều gì, cần phải xem chừng để nói những điều người ta muốn nghe thành thử đâm ra lừa dối chính mình. Đùa cợt hay tranh chấp với người đều dễ sinh ra vui buồn, hận thù, làm cho lòng mình không được bình yên. Còn như suy nghĩ về việc được mất [450], đâm ra có nhiều tính toán so bì [451] sẽ bị loạn tâm. Khi tâm trí đã loạn, ta (mất lý tính) giống như kẻ say, và tình trạng say sưa sẽ dẫn đến mộng mị. Con người ta ai cũng vậy, cứ sống ồ ạt mà không biết mình đang chúi mũi chạy theo cái gì thì sẽ đánh mất con người thật của mình.

Người chưa hoàn toàn giác ngộ trên con đường tu Phật, nhưng biết lìa bỏ cám dỗ trần tục, đem thân ra gửi nơi nhàn tĩnh, không còn liên hệ đến việc đời, có được tấm lòng bình thản, thì cho dù chỉ là trong thời điểm hiện tại, có thể nói là đã được mãn nguyện.

Trong sách Maka Shikan đã có lời dạy:

Mưu sinh, thù tạc, tài nghệ, học thức đều là đầu mối của sự mê lầm. Phải dứt bỏ! [452]

Đoạn 76: Chung quanh cửa quyền

Nơi dinh cơ của kẻ được thời đắc thế, khi có dịp quan hôn tang tế, giữa đám đông ra vào tấp nập, lại có những nhà sư khất thực đã lánh đời trà trộn vào, chầu chực để xin được tham dự. Quang cảnh đó làm ta tự hỏi vì cớ nào họ phải lụy đến thế.

Cho dù có lý do gì xứng đáng đi chăng nữa, đã là tăng nhân thì phải lánh xa thế tục.

Đoạn 77: Hồi đó có người thế này

Thật không thể nào chấp nhận được là ở đời, vào thời điểm nào đó, có những giai thoại được người ta mang đi nói hết chỗ này đến chỗ nọ như món quà thời thượng. Kẻ chẳng liên hệ nếp tẻ gì cũng tỏ ra hiểu biết hết ngọn ngành, không những đem nó ra đàm tiếu với mọi người, lại còn dọ hỏi chỗ khác cho giàu thêm chi tiết nữa. Đặc biệt có những tăng sĩ [453] đã lánh đời, đem thân gửi chốn thâm sơn cùng cốc, lại còn hăng hái đi tìm hiểu về hành vi của những người thế tục như thể nó dính líu đến mình. Họ phóng ra những tin tức mà ta phải ngạc nhiên tự hỏi làm sao họ lại có thể thông thạo đến thế.

Đoạn 78: Những câu chuyện hiếm có và mới lạ nhất

Cũng thế, ta không thể nào chịu được việc người ta tỏ ra gắn bó đặc biệt với những chuyện hiếm có và mới lạ nhất rồi làm ầm lên thái quá. Ta thích lối xử trí thanh tao của kẻ lẳng lặng làm ngơ cho đến khi chuyện mới lạ đó trở thành cũ mèm.

Khi có một người bạn nào mới ở đâu đến nhập bọn với chúng ta, kẻ mất dạy và thô lỗ [454] sẽ nhắc đến những tên tuổi và bàn về những đề tài mà chỉ những ma cũ đang đứng chung quanh mới quen thuộc. Anh ta sẽ nói những câu hiểu ngầm, ném từng cái nhìn đồng lõa, cười đùa có hậu ý với những người này để cho ông bạn mới, vì chả hiểu ất giáp gì, sẽ cảm thấy mình quê kệch.

Đoạn 79: Đừng tỏ ra ta đây rành rẽ [455]

Trước một vấn đề, cứ giữ thái độ không hiểu biết thấu đáo là tốt hơn cả. Người lỗi lạc thì cho dù chuyện có nắm vững chăng nữa, cũng làm ra vẻ mình chỉ biết sơ sơ.

Chính cái anh nhà quê mới bước chân ra từ hốc núi mới là kẻ khi bàn luận điều chi, đối đáp như thể ta đây cái gì cũng biết, cái gì cũng rành. Vì là người dám lấy thái độ như thế, chắc hẳn anh chàng cũng có tài cán về một phương diện nào đó đáng để đời nể phục. Dù vậy, cái cách thức anh ta trình bày hiu hiu tự đắc về mình trông thật khó coi.

Gây ấn tượng tốt cho ta là loại người ăn nói thận trọng cho dù khi bàn về vấn đề mình nắm rõ và không mở miệng nếu người khác không đặt câu hỏi.

Đoạn 80: Ai cũng thích những của lạ

Con người ta đều thích những gì không dính dáng tới (cuộc sống thường nhật của) mình cho lắm. Cho nên nhà sư thì thích võ nghệ, trong khi vũ sĩ các tỉnh miền Đông [456] dường như chưa biết cách dương cung mà đã rành Phật pháp, thích họp nhau làm thơ renga [457], khổ sở để trau dồi âm nhạc. Bởi vì hai loại người này không tích cực đeo đuổi chuyên môn của mình mà lại đua đòi những ngón nghề thứ yếu cho nên càng ngày càng không tránh khỏi việc bị người đời khinh miệt.

Không riêng gì các nhà sư, ngay cả tầng lớp thượng lưu như công khanh hay quan lại được quyền lên điện, đa số đều thích võ nghệ. Cho dẫu đánh trăm trận thắng cả trăm, chẳng thấy ai khen ngợi họ là dũng cảm. Bởi vì lúc nhờ thời may vận tốt mà phá được giặc thì ai cũng được coi là can đảm anh hùng. Mất hết đao kiếm, bắn cạn cả tên, chiến đấu đến phút cuối mà chẳng chịu hàng địch [458], bình thản chấp nhận cái chết xong rồi, lần đầu tiên mới được vinh danh. Đó là định mệnh của họ. Còn sống thì chưa được kể là con người võ dõng. Lý do trên hết là võ nghệ giống như hành vi của cầm thú, đưa ta rời xa khỏi đạo làm người. Nếu không phải là kẻ sinh ra nhằm nhà vũ sĩ thì đừng có ham thích võ nghệ làm gì vô ích.

Đoạn 81: Chữ viết và tranh vẽ trên bình phong, cửa kéo [459]

Những tấm bình phong hay cửa kéo phết giấy bồi mà lại trang trí chữ viết theo thư pháp hay tranh vẽ với nét bút vụng về, tự thể không đến nổi xấu xí. Chúng chỉ làm người ta nghĩ rằng chủ nhân ngôi nhà là người thiếu óc thẩm mỹ. Nói chung, đồ đạc trong nhà có thể làm lộ rõ cho ta biết cái yếu kém không ngờ của chủ nhân. Dù vậy ta không chủ trương rằng họ bắt buộc phải có những món đồ quý giá sang trọng. Ta chỉ đặt vấn đề đối với những trường hợp như với lý do giữ cho chúng khỏi bị suy suyển, người ta đem trưng bày những đồ đạc hạ cấp không chấp nhận được, hoặc trang trí thừa thãi vô dụng vì muốn làm ra vẻ có của hiếm, hay tập trung vào những sở thích hiếu kỳ phiền toái. Cứ theo cung cách xưa, đồ đạc không trưng bày quá lố, không tốn tiền nhiều nhưng phẩm chất tốt là lối trang trí đáng được đánh giá cao hơn cả.

Đoạn 82: Bìa sách bằng vải mỏng

Nghe có người bảo Dùng vải mỏng [460] làm bìa, sách dễ bị hỏng, Tonna [461] mới trả lời:

Sau khi lớp lụa là bọc sách bị sờn và sổ ra ở hai đầu trên và dưới cũng như khi vỏ ốc trên trục cẩn xà cừ của các quyển sách cuốn đã bong đi, nhìn quyển sách mới thấy cái thi vị của nó.

Ý kiến của ông thật đáng khâm phục. Ngoài ra, khi nói về những tác phẩm do nhiều cuốn tập hợp lại thành một bộ, nếu hình thức các cuốn không đồng loạt, thường làm bực mắt. Thế nhưng, pháp chủ Kouyuu [462] nhận xét:

Thu thập mọi vật cho nó được hoàn toàn đồng bộ là việc làm của kẻ tầm thường. Cái không đồng bộ mới hay!

Ta cũng nể lời nói của ông thay!

Có người [463] nhắc rằng:

Ở đời mọi sự như thế cả. Những gì ngăn nắp, hoàn toàn, đều không tốt. Ngược lại, cái gì không trọn vẹn, để dở dang, mới đáng thích vì làm cho ta yên tâm [464] Trong cung cấm cũng vậy, lúc nào cũng chừa một chỗ không được phép hoàn thành.

Thật vậy, cứ nhìn ví dụ những nội điển, ngoại điển [465] mà hiền nhân đời xưa trứ tác, chỉ toàn [466] các loại thiếu chương, thiếu đoạn.

Đoạn 83: Ngài Tả Đại Thần xuất gia Chikurinin

Ngài Tả Đại Thần xuất gia Chikurinin [467] có thể được thăng đến chức Thái Chính Đại Thần [468] một cách êm xuôi trót lọt nhưng lại bảo:

Đạt được địa vị đó khó khăn gì đâu, chuyện ấy nếu xảy ra (cho ta) cũng không đáng lấy làm lạ. Nhưng thôi, ta ngừng ở chức Tả Đại Thần và xin về vườn vậy!

Sau đó ngài bỏ đi tu mất.

Ngài Tả Đại Thần Toin [469] hết sức khâm phục điều đó, không đeo đuổi việc được cất nhắc lên chức Thái Chính Đại Thần nữa.

(Kinh Dịch có chữ) Kháng Long Hữu Hối [470] cho thấy trăng tròn rồi khuyết, sự vật cực thịnh sẽ suy vi [471] Khi đạt đến tuyệt đỉnh rồi sẽ tiến dần tới chỗ tiêu diệt [472] Đó là đạo lý của muôn vật.

Đoạn 84: Ngài Pháp Hiển Tam Tạng qua Thiên Trúc

Có giai thoại kể rằng khi cao tăng Pháp Hiển Tam Tạng [473] qua bên Thiên Trúc, thấy cái quạt làm ở chốn cố hương thì đâm ra buồn [474], lúc đau ốm, lại muốn nếm đồ ăn Trung Quốc [475] Nghe thế, có người bảo:

Đã là nhân vật có tầm cỡ như vậy, sao khi ra nước ngoài lại để thiên hạ thấy chỗ quá yếu đuối của mình nhỉ?

Ngược lại, pháp chủ Kouyuu [4 [476] cho rằng:

Ôi chao, ngài Pháp Hiển Tam Tạng thực đáng yêu, đầy tình người!

Tuy lời của pháp chủ không đứng trên lập trường của người đi tu nhưng hết sức thâm thúy, làm cho ta cảm động.

Đoạn 85: Lòng không ngay thật

Lòng dạ con người đâu thẳng băng cho nên ở đời không phải chỉ toàn chuyện thực và không có chuyện giả. Ngược lại, cũng đừng vì thế mà kết luận là chẳng có ai chính trực. Cho dù bản thân mình không ngay thật, mình cũng thèm có được cái ngay thật của những người hiền [477] Thói đời là như vậy.

Tuy nhiên kẻ cực kỳ ngu ngốc thì khi bất chợt bắt gặp một người hiền, lại đâm ra ghét bỏ, mở miệng nói xấu ngay:

Cái ngữ đó không chịu nhận chút lợi nhỏ, chắc hẳn chờ đợi món lợi lớn hơn. Y màu mè giả dối bề ngoài để nhắm tiếng tốt thôi!

Chẳng qua hành vi của người hiền đức ấy không giống với bụng dạ của anh chàng nên hắn mới có thái độ chê bai. Vì lý do đó, ta mới hiểu là người này lúc sinh ra đã vô cùng ngu độn, không bao giờ hướng thượng nỗi [478] Ngay có muốn màu mè giả dối, bề ngoài tỏ ra không cầu lợi lộc, anh ta cũng không biết cách thực hiện. Dù chỉ là nhất thời, anh không thể nào bắt chước nổi hiền nhân.

Nếu có ai bảo là mình đang bắt chước người điên rồi chạy rông trên đường phố kinh đô thì anh ta đúng là người điên không chữa nỗi [479]. Bảo bắt chước kẻ hung ác [480] rồi giết người thì chính là kẻ ác không sai. Nhưng muốn làm ngựa hay như ngựa Ký [481], tất là đồng loại của ngựa Ký, lấy vua Thuấn làm mẫu mực sẽ trở thành kẻ trị dân giỏi như vua Thuấn. Lúc đó thì mang tiếng là kẻ giả dối (bắt chước) nhưng khi bắt chước người hiền, chính họ đã là kẻ hiền rồi.

Đoạn 86: Quan tham nghị Kanetsugu

Ngài Koretsugu [482], chức Gon Chieu Dai Ngon, quan tham nghị bậc trung, rất có tài văn chương. Chuyên tâm tu hành, đọc kinh từ hồi chưa xuất gia. Sau ở cùng một chùa (Miidera) và theo học chánh tăng En. i Sojo [483] là vị sư trụ trì chùa ấy, người có danh hiệu Tera Hôshi [484]. Trong niên hiệu Bunpou (khoảng 1319), khi ngôi chùa Miidera bị hỏa tai thiêu rụi, ngài mới thưa với chánh tăng Eni:

Tôi thường gọi ngài là Tera Hôshi (sư nhà chùa) nhưng bây giờ chùa đã cháy mất rồi, tôi chỉ phải gọi ngài là Hôshi (sư) (không khống) mà thôi.

Thật là một câu nói khôi hài ý nhị [485].

Đoạn 87: Cho phép người làm uống rượu

Khi cho phép người ăn kẻ ở uống rượu, thường phải hết sức lưu ý.

Có một người kia sống ở vùng Uji [486] Thường ngày vẫn đi lại thân thiết với người anh em cột chèo tên gọi Gugakubo, một vị sư tại gia nổi tiếng phong cách thanh nhã, có nhà ở kinh đô. Một hôm khi ông ta sai người mã phu đem ngựa đi đón Gugakubo xuống chơi thì Gugakubo mới bảo anh kia:

Đường khá xa đấy. Trước khi khởi hành, chú dắt ngựa ơi, uống ít chén rượu cái đã!

Thế rồi cho bày rượu ra, người mã phu tiếp nhận chén mời liền tù tì và nốc ừng ực. Anh ta đeo gươm lớn bên hông, ra dáng oai phong lẫm liệt. Ông Gugakubo cho đi tháp tùng và nghĩ thầm người này trông cậy được. Đến quãng Kohata [487] thì có bọn các nhà sư ở các chùa Nara [488] kéo tăng binh đi qua, gặp nhau ở giữa đường. Anh chàng mã phu mới hướng về đám người đó mà nói:

Trong chốn núi non, trời lại về chiều rồi, chúng bay đi đâu mà khả nghi quá! Đứng lại không nào?

Nói xong chực tuốt gươm ra làm bọn tăng binh cũng hè nhau tuốt gươm, lắp tên vào cung chuẩn bị đối phó. Lúc đó ông Gugakubo mới chắp tay vái:

Cái chú em này say rồi nên không còn lý trí. Xin rộng lòng tha thứ!

Cả bọn bèn cười ồ rồi bỏ đi.

Lúc đó, anh kia mới quay lại ông Gugakubo, tức tối bảo:

Nhà thầy vừa làm một chuyện thật đáng tiếc. Tôi có say sưa gì đâu! Đang lúc sắp sửa được cho chúng biết oai danh thì vì thầy, tôi tốn công đã tuốt gươm ra.

Rồi lia gươm chém bất kể về phía Gugakubo làm ông té lọt cả xuống ngựa. Anh ta lại hét to:

Có cướp núi! làm cho dân làng vùng Kohata tụ họp đông đảo kéo đến.

Lúc đó lại rao lên:

Cướp núi chính là ta đây!

Rồi xông vào giữa đám đông vừa múa gươm loạn xạ. Dân làng mới hùa nhau túm vào đánh anh ta bị thương, quật ngã và trói gô lại. Con ngựa bê bết máu người cưỡi nhắm con đường lớn vào thành phố Uji (quen đường cũ) đâm đầu chạy về hướng nhà chủ. Ông chủ kinh hãi đốc suất bọn người làm trong nhà chạy đi tìm thì mới khám phá ra ông Gugakubo đang nằm dài rên rỉ tức tưởi giữa cánh đồng cây mọc toàn cây sơn chi [489]. Họ vác ông ta về nhà. Tuy Gakugabo bảo toàn được tính mệnh nhưng cũng bị nhiều vết thương trên lưng và từ đó ông mang thân tàn tật [490]

Đoạn 88: Một người kia nói về nét bút của Ono no Tofu

Có người giữ được tập thơ Wakan Roei – shuu [491] do chính (nhà thư pháp) Ono no Tofuu [492] chép ra. Nghe tin đó, một người khác mới bảo:

Những điều gì ông nói về quyển sách của ông, không phải không đáng tin.

Thế nhưng, việc Ono no Tofu chép lại một quyển sách do ngài Shijo Dainagon soạn ra, nếu tính theo niên đại thì rất ư phi lý. Tôi xin nêu lên thắc mắc về điểm này!

Lúc đó người kia mới đáp:

Bởi vì có chuyện lạ như thế nên quyển sách này mới được coi là quý báu chứ!

Rồi chăm bẳm cất giấu kỹ lưỡng.

Đoạn 89: Con quái thú Nekomata trong núi sâu

Khi nghe có người bảo:

Trong núi sâu có giống thú tên gọi Nekomata [493]. Hình như người ta cũng bị nó ăn thịt.

Thì có kẻ khác phụ họa:

Đâu cần vào núi. Chung quanh đây cũng có. Mèo sống lâu năm thì biến thành Nekomata, xơi cả người ta!

Ở gần chùa Gyo Ganji, nhà sư pháp danh Ani. amida Butsu [494], lao khổ tu luyện thơ renga [495], khi nghe người ta kể chuyện này, tự thấy mình sống đơn độc nên thường lo lắng để ý. Lúc đó, ông hay đi dự các hội thơ renga đến khuya mới về ngang qua vùng một mình. Một hôm, đến bên bờ sông Kogawa, ông có cảm tưởng như thấy tiếng chân con quái thú Nekomata mà người ta hay đồn đại đang tiến lại bên, rồi nó bay đu lên người và quặp vào cổ định ăn thịt ông.

Mất hết thần hồn, hai chân ông không còn đứng vững, muốn thoát thân cũng không biết làm sao. Ông ngã lăn xuống sông, miệng la oai oải:

Cứu tôi với. Nekomata! Nekomata tấn công tôi!

Từ các nhà chung quanh, thiên hạ ào ào thắp đuốc chạy tới gần. Họ nhìn lại hóa ra là cái ông sư quen mặt bên láng giềng. Họ hỏi:

Thầy gặp chuyện gì thế?

Rồi vực ông từ dưới sông lên. Mới thấy ông đang ôm cứng trong tay mấy món phần thưởng kiếm được ở hội rengar và các thứ linh tinh khác như quạt, tráp con, tất cả đều đẫm nước. Ông trông chẳng khác nào người được cải tử hồi sinh. Cứ hình dáng như thế, ông lết về đến nhà.

Thực ra chỉ là con chó ông nuôi giữa lúc đêm hôm thấy chủ về phóng lên mừng đó thôi [496].

Đoạn 90: Người giúp việc cho quan Dainagon Hôin

Cậu bé Otozurumaru, người giúp việc cho quan Dainagon Hoin [497], có quen biết với một nhân vật tên là ngài Yasura và thường xuyên đến thăm viếng ông ta. Một hôm cậu ta vừa đi về, quan mới hỏi:

Ngươi vừa đi đâu về đấy?

Cậu bèn trả lời:

Thưa con đến thăm ngài Yasura.

Quan mới hỏi tiếp:

Chứ ông Yasura ấy là tăng hay tục?

Cậu mình bèn chắp hai tay lại cung kính trả lời:

Thưa con không biết. Vì con chưa bao giờ nhìn được cái đầu ông ta.

Ta không hiểu tại sao chỉ có cái đầu của ông kia là cậu ta không thấy? [498]

Đoạn 91: Chuyện xảy ra vào Ngày Lưỡi Đỏ

Đạo âm dương [499] không đề cập gì đặc biệt đến Ngày Lưỡi Đỏ [500] Người xưa cũng không kiêng kỵ chi cái ngày này. Mới gần đây thôi, có kẻ tung tin ấy là một ngày cần phải kiêng, trong ngày này có những chuyện không thể hoàn tất một cách êm xuôi, có những việc làm hay lời nói không trót lọt, vật nhận được lại mất, việc chủ trương không xong. Thật là chuyện ngu si. Đã có bao nhiêu kế hoạch không thành dù đã chọn ngày lành tháng tốt để khởi công và con số những trường hợp thất bại đó cũng chỉ ngang ngang với những cái thất bại xảy ra trong các Ngày Lưỡi Đỏ mà thôi.

Lý do là trong cuộc đời vô thường biến dịch [501] này, những gì in vào mắt ta chỉ là những cái không hề tồn tại, chúng không hề khởi đầu mà cũng chẳng cáo chung. Không có ước nguyện nào thành hiện thực mà cũng chẳng có dục vọng nào được thỏa mãn. Lòng người là cái không đáng đem ra thảo luận. Vạn vật chẳng khác gì tấn tuồng ảo hóa. Chúng không thể nào tiếp tục giữ nguyên hình thái cho dù chỉ trong phút giây. Kẻ kiêng cử cái Ngày Lưỡi Đỏ là kẻ không hiểu đạo lý. _ Nếu làm việc ác trong ngày tốt thì chỉ đưa đến chuyện gỡ thôi. Còn làm điều thiện trong ngày xúi quẩy, thường vẫn tạo được cơ duyên tốt đẹp.

Kết quả chung kết hay không là do hành vi thiện ác quyết định, không có ngày nào quyết định cho nó.

Đoạn 92: Người tập bắn cung

Có người kia học bắn cung, mới cầm lấy hai mũi tên và ngắm đích. Khi vừa làm như thế thì thầy anh ta mới dạy:

Kẻ mới tập bắn, không cần đến hai mũi tên. Nếu ỷ y có mũi thứ hai thì khi bắn mũi thứ nhất sẽ sinh ra lơ đễnh. Mỗi lần bắn, phải nghĩ rằng mình không có quyền thất bại, làm sao để mũi tên độc nhất trúng đích cho bằng được.

Chỉ cầm mỗi hai mũi tên, lại đứng trước mặt thầy nữa, anh không có ý định phí phạm một mũi nào cả. Thế nhưng dù chính anh không ý thức, ông thầy đã nhìn thấy cả việc anh có yên tâm hơn khi hình ảnh của hai mũi tên hiện ra trong trí. Lời dạy bảo này của ông thầy có thể áp dụng cho mọi tình huống.

Người học Phật cũng thế. Mới chiều hôm nay đã nghĩ đến sáng hôm sau, giữa ban mai đã nghĩ về buổi chiều và trông đợi rằng đến lúc đó mình sẽ tập trung tinh thần trở lại và tu tập đàng hoàng. Người như vậy thì có thể nào ý thức rằng cái lơ đễnh chỉ nháy mắt đã đủ lọt vào nằm trong lòng mình hay không? Cho nên một khi vừa quyết tâm làm một việc gì thì phải chuyển qua hành động ngay, được như thế là điều tuyệt vời.

Đoạn 93: Người đi bán bò

Có kẻ kể rằng: Giả dụ một người đem bò đi bán. Người mua bảo:

Ngày mai tôi sẽ đem tiền mua bò đến để đổi lấy bò!

Thế nhưng tối hôm đó, con bò lăn ra chết. Trong trường hợp này, người mua được lợi và người bán bị thiệt.

Khi nghe chuyện đó, kẻ đứng bên cạnh lý sự:

Rõ ràng người chủ bò có thiệt thòi đấy nhưng một đằng, ông ta được mối lợi khác. Lý do là người và bò đều giống nhau ở một điểm: cả hai không biết hễ là có sinh mạng thì phải kề cận cái chết. Ở đây, không ngờ bò chết và cũng không ngờ chủ bò lại sống sót. Sự sống dù một ngày (của chủ bò) đáng giá hơn đống vàng. Giá trị của con bò còn nhẹ hơn chiếc lông ngỗng [502] Người (chủ bò ý thức được bài học đó như) thu được đống vàng mà chỉ mất một xu teng thì thiệt thòi ở chỗ nào?

Nói đến đây, mọi người bèn cười nhạo:

Cứ theo lối lý sự của nhà anh thì phải mất con bò mới hiểu được giá trị của cuộc sống à!

Người hồi nãy lại lên tiếng:

Điều tôi muốn nói là con người nếu ghét sự chết thì phải biết coi trọng mạng sống. Mỗi ngày phải thực sự cảm thấy niềm vui được sống ở đời. Kẻ ngu ngốc quên mất niềm vui ấy, hoài công đi tìm những thú vui khác. Quên mất mình đã có cái quý báu nhất, chính là mạng sống, lại tham lam chạy theo những mối lợi mới nhưng thử hỏi biết đến bao giờ anh ta mới thỏa mãn. Khi đang sống anh ta không biết hưởng cuộc sống, thế nhưng khi đối diện với cái chết, lại sợ nó. Có gì mâu thuẫn hơn không? Con người không biết hưởng cuộc sống bởi vì không biết sợ cái chết. Không, không phải họ không sợ cái chết đâu! Đúng ra, họ quên mất cái chết ở sát bên mình. Nếu có một ai bảo rằng tâm trí mình đã vượt lên khỏi hình tướng của sự sống chết thì anh là người đã mở được cánh cửa để vào cõi giác ngộ vậy.

Nghe thế, mọi người lại cười ồ lên nhạo anh ta nhiều hơn nữa [503].

Đoạn 94: Lúc quan Tướng Quốc Tokiwai lên sảnh đường

Lúc quan Tướng Quốc Tokiwai [504] đang trên đường tới sảnh đường, viên vũ sĩ cấm vệ (tức đội hộ vệ thái thượng hoàng) có nhiệm vụ mang chiếu chỉ, khi đến gặp ngài lại xuống ngựa (để chào). Sau đó quan Tướng Quốc mới tâu lên:

Viên vũ sĩ họ Mỗ trong đội cấm vệ là kẻ trong người có mang chiếu chỉ mà lại xuống ngựa. Không thông hiểu nghi thức như thế, làm sao hắn ta có thể phục vụ lệnh bề trên được.

Nghe chuyện, thái thượng hoàng bèn bãi chức viên Mỗ [505].

Trong trường hợp này, sứ giả phải ngồi trên ngựa mà nâng chiếu chỉ lên cho người kia xem. Xuống ngựa là vi phạm lễ tiết.

Đoạn 95: Thắt nút dây nắp hộp

Khi hỏi một người rành rẽ về nghi thức:

Muốn cột dây chung quanh nắp hộp [506] phải bắt đầu từ phía mặt hay phía trái?

Thì được trả lời:

Có thuyết cho rằng phải bắt đầu từ trục (phía tả), có thuyết cho rằng phải bắt đầu từ bìa ngoài (phía hữu) cho nên muốn cột từ phía nào trở đi cũng không sao. Đối với những cái hộp đựng thư từ, người ta thường cột từ tay mặt qua. Còn đối với những cái hộp đựng đồ vặt vãnh thì hay thấy người ta cột từ tay trái tới. [507]

Đoạn 96: Giống cỏ tên gọi là Menamomi

Có giống cỏ tên gọi Menamomi. [508] Người ta bảo khi bị rắn hổ mang cắn, lấy cỏ đó vò nát mà đắp lên sẽ lành ngay. Nếu biết cách nhận ra được thứ cỏ này trước thì tốt quá. [509]

Đoạn 97: Vật sống bám theo

Lúc nào cũng có một vật nào đó sống bám theo một vật khác, làm tiêu hao và nguy hại cho vật đó. Chúng nhiều không kể xiết: chấy rận trên thân người, chuột trong nhà, giặc trong nước. Đối với những kẻ tiểu nhân, đó là của cải, đối với người quân tử, đó là điều nhân nghĩa [510], đối với nhà tu, đó là đạo pháp. [511]

Đoạn 98: Những lời dạy bậc cao hiền để lại

Ta có dịp đọc quyển sách nhan đề Ichigo Honda [512] thì phải, thấy ghi chép lời của các bậc thánh hiền đáng kính còn để lại cho đời. Trong đó có những điều ta xin phép biểu lộ sự đồng tình và thuật ra đây:

  1. Chuyện còn đang lưỡng lự giữa làm hay để đó không làm thì, nói gọn lại là chớ nên làm. [513]

  2. Kẻ lo tụng niệm để vãng sanh cực lạc không nên sở hữu vật gì dù là một cái thạp đựng cám muối dưa. Từ việc trữ kinh sách cho đến cất tượng Phật để thờ, thảy thảy đều vô ích. [514]

  3. Kẻ xa lánh trần tục nếu giữ được tấm lòng thảnh thơi dù không có một vật dụng nào là kẻ có lối sống cao cả nhất. [515]

  4. Kẻ tu lâu năm phải sống như người mới đi tu, kẻ trí phải sống như kẻ ngu, kẻ giàu có phải sống như kẻ nghèo khó, người có tài năng phải sống như kẻ bất tài.

  5. Mong muốn theo được con đường của Phật thì không có gì khác hơn là coi việc làm sao cho thân mình được nhàn hạ, không để chuyện thế gian bận tâm, như là cứu cánh duy nhất.

Sách đó còn viết nhiều chuyện khác nhưng ta không nhớ ra.

Đoạn 99: Quan Tướng Quốc Horikawa

Quan Tướng Quốc Horikawa [516] không những là người đẹp trai mà còn có cuộc sống sung túc, hay xa hoa phí phạm. Ngài đặt con mình là Mototoshi vào chức Tổng Chỉ Huy Lực Lượng Cảnh Bị và Hình Pháp nhưng trên thực tế (chỉ là danh hiệu), bao nhiêu công việc liên quan đến an ninh ngài quyết đoán hộ ông ta cả. Có một hôm, ngài nhận thấy cái tủ đồ sộ (đựng công văn) [517] dùng trong nha quá xấu xí nên bảo con trai hạ lệnh đóng cái mới đẹp hơn. Tuy nhiên, bọn nha lại, vốn hiểu rõ về nghi thức và truyền thống, mới thưa rằng:

Chiếc tủ lớn này có tự đời thuở nào rồi. Không ai rõ nguồn gốc nhưng ít nhất nó cũng lâu đến mấy trăm năm. Đã là đồ vật ở chốn cửa công, truyền từ đời nọ đến đời kia, nếu càng xưa lại càng quý. Không nên thay đổi chúng một cách dễ dàng như vậy.

Nhờ đó, lệnh nói trên mới bị bãi bỏ. [518]

Đoạn 100: Quan Tướng Quốc Koga

Quan Tướng Quốc Koga [519] ngồi xơi nước trong một gian phòng trên điện Seiryo [520] Lúc người thị nữ thuộc ty tạp dịch trong điện [5 [521] dâng nước cho ngài trong một cái chén bằng sành, ngài bèn phán:

Đem cho ta gáo gỗ! [522]

Và ngài uống nước bằng cái gáo.

Đoạn 101: Người chuẩn bị lễ nhậm chức cho đại thần

Có người (bậc công khanh) chuyên lo chuẩn bị nghi thức nhậm chức cho các đại thần, không nhận lấy sắc phong từ tay của viên quan thuộc trung thư tỉnh [523] mà lại bước lên điện Shishin [524], (nơi hành lễ). Đây là một lỗi lầm lớn nhưng vì ông ta không thể quay xuống để tiếp nhận sắc phong được nữa nên hết sức khổ tâm. Lúc đó, chức quan lục phẩm thuộc phủ tướng quốc tên là Yasutsuna [525] mới nhờ một nữ quan trùm áo choàng kazuki [526] lên và đem sắc phong ngầm trao cho ông ta. Đây thật là một cách xử trí khéo léo [527]

Đoạn 102: Ngài Mitsutada, chức In no Dainagon đã xuất gia

Hồi ngài Mitsutada, chức In no Dainagon [528], còn giữ trọng trách cử hành lễ Tsuina [529] để trừ tà, có lần đến xin Hữu Đại Thần Toin [530] chỉ thị về nghi thức điều hành cuộc lễ. Ngài Toin dạy:

Ông hãy hỏi thăm Matagoro [531]._ Theo ta, không có ai rành rẽ về việc công hơn chú ấy!_

Người tên gọi Matagoro là một bác cận vệ già, thành thạo mọi công vụ. Có lúc ngài Konoe [532] đến dự một cuộc lễ lại quên mất tấm nệm trải xuống để quỳ gối, (còn đang lúng túng) mà đã gọi chức Geki [533] tới. Nhân vì đôi khi già Matagoro hay châm đuốc ở ngoài vườn nên thoáng nghe được việc đó, mới thưa thầm:

Thay vì gọi chức Geki tới, sao ngài không cho đem tấm nệm để quỳ gối tới trước đã?

Đoạn 103: Ở điện Daikakuji <a href=”#“heading-h.esqnb1iv0dhz” id=“heading-h.esqnb1iv0dhz”>

Ở điện Daikakuji [534], những người hầu hạ thân cận bên cạnh thái thượng hoàng xuất gia hay đặt ra những câu đố rồi tìm lời giải đáp với nhau. Nhân lúc có viên ngự y tên Tadamori [535] đến chầu, chức tham nghị cấp cao kiêm chức thị tùng thái thượng hoàng là ông Kinakira [536] mới đưa ra câu đố của mình:

Cái gì tên gọi Tadamori mà không phải là sản phẩm của nước ta?

Có người giải đáp:

Cái bình kiểu Tàu (Karaheiji). [537]

Trong lúc cử tọa cười ầm lên, Tadamori nổi giận bỏ ra ngoài.

Đoạn 104: Ngôi nhà trọ hoang vu

Có ngôi nhà bỏ hoang vu, không ai lui tới [538] Một người đàn bà chẳng còn nơi nương tựa, và vì một lý do gì đặc biệt phải xa lánh cặp mắt người đời, đang náu mình nơi ấy. Lại có người đàn ông định đi thăm nàng, mới đợi lúc một tối trăng liềm, lén lút tìm đến. Khi nghe tiếng chó sủa râm ran, người thị nữ bước ra cất tiếng hỏi:

Vị nào ở đâu đến vậy?

Nhưng (có lẽ người ấy muốn dấu tên nên cô ta) cứ thế thông báo cho nàng rồi đưa vào. Sau khi nhìn không khí tịch mịch trong nhà, lòng chàng đau đớn vì không hiểu nàng đã sống những ngày qua như thế nào. Đứng chờ bên hàng hiên cũ nát một hồi lâu, chàng nghe một giọng nói trầm tĩnh nhưng trẻ trung bảo mình:

Xin vào bên trong này cho!

Nên mới hé tấm liếp cửa (vì ít đón tiếp ai) đóng mở hơi khó khăn mà bước vào. [539]

Có người đàn ông muốn đến thăm một người đàn bà đang sống một mình (Đoạn 104).

Nhìn vào bên trong thì căn nhà không đến nỗi điêu tàn lắm. Lại còn có vẻ vô cùng thanh nhã. Tuy chỉ có ánh đèn chập chờn soi sâu trong góc phòng nhưng cũng thấy cách bày biện thật đẹp mắt. Một làn hương, không phải là loại hương mới được đốt lên vội vàng [540], làm cho gian nhà như ngập tràn kỷ niệm. Người đàn bà bảo:

Đóng cửa khóa nẽo hộ! Biết đâu trời mưa đấy! Đẩy xe của khách vào trú dưới cổng nghe! Nhớ dọn chỗ cho những người tùy tùng nghỉ tối nay nữa! [541]

Và tiếng người thị nữ thì thào:

Tối ngay coi bộ chúng mình yên tâm ngủ ngon giấc được rồi đấy nhé! [542] Tuy tiếng nói nhẹ nhàng nhưng vì gian nhà quá nhỏ bé cho nên cũng đủ lọt vào tai chàng. [543]

Thế rồi, hai người âu yếm kể lể cho nhau tình cảnh của họ những lúc gần đây, và tuy trời hãy còn tối, tiếng gà đầu tiên đã cất lên. Trong lúc hai bên giãi bày hết cả tấm lòng với nhau về quá khứ, bàn bạc những chuyện tương lai thì gà đã gáy rộ lên một lần nữa, như nhắc với họ là đêm đã tàn rồi [544] Tuy vậy cảnh vật chung quanh hãy còn tờ mờ và vì không gì cấp thiết để phải rời nhau nên họ ráng nán thêm chút nữa.

Chẳng bao lâu, vài tia ánh sáng trắng đã len vào khe cửa và đã đến lúc người đàn ông phải hứa rằng chàng không sẽ bao giờ quên tấm tình yêu với nàng [545], rồi ra đi. Qua màu xanh mướt mắt của những ngọn cây trong vườn lúc đó trải rộng bầu trời tháng tư với cảnh sắc một buổi bình minh.

Mỗi khi nghĩ đến cái đẹp và niềm vui chàng tìm được qua kỷ niệm của buổi mai hôm ấy, người đàn ông kia, mỗi khi rong xe đi ngang con đường trước nhà nàng, đều nhìn dõi cho đến khi bóng cây quế [546] đánh dấu ngôi nhà mất hút. Bây giờ chàng hãy còn nhìn theo như vậy [547].

Đoạn 105: Tuyết tàn còn đọng bên tường bắc

Ở phía bắc, khuất dưới bóng ngôi nhà, tuyết tàn [548] hãy còn đọng, đông cứng. Trên mấy cái càng của chiếc xe bò [549] dựng ở đấy, sương khuya đọng lấp lánh vì phản chiếu ánh sáng trong vắt của vầng trăng tàn về sáng cũng vương chút âm khí lạnh lẽo. Trước khung cảnh như thế, trên hành lang của gian phòng thờ Phật vắng lặng, có một người đàn ông nghĩ biểu khác vời đang cùng với một người đàn bà ngồi trên ngạch cửa nói chuyện với nhau. Không biết họ nói những gì nhưng câu chuyện tưởng chừng không biết bao giờ mới dứt.

Đầu tóc dung mạo cả hai xem ra đều thật trang nhã [550]. Thoảng đâu đây một mùi hương thơm không tả nổi nương theo luồng gió tỏa ra nên càng thêm quyến rũ [551]. Những gì họ nói nghe chỉ câu được câu mất nhưng dễ thương, lôi cuốn làm sao khiến mình cũng đâm ra muốn biết họ đang nói những gì [552].

Đoạn 106: Truyện cao tăng Shokuu núi Koya

Đó là câu chuyện hôm ngài Shokuu [553], cao tăng trên núi Koya [554], có việc lên kinh đô. Trên con đường núi hẹp, tình cờ ngài chạm phải một người đàn bà cũng cưỡi ngựa như mình. Không biết người dắt ngựa cho bà ta điều khiển vụng về thế nào mà làm con ngựa nhà sư rơi lọt hố.

Nhà sư vốn là người mau nổi nóng, mới lên tiếng trách móc:

Cái bà này sao hỗn thế. Nên biết nhà Phật có tứ bộ chúng tức bốn bậc đệ tử! Ưu bà di (nữ) phải ở dưới ưu bà tắc (nam), ưu bà tắc ở dưới tỳ khưu ni (nữ), còn tỳ khưu ni phải ở dưới tỳ khưu (nam) kia mà. Bà chỉ là hạng ưu bà di thấp kém lại dám đá tỳ khưu lọt hố như thế là đã làm chuyện cực ác trước giờ chưa có đấy nghe!

Người đàn ông dắt ngựa cho bà ta lúc đó mới bảo:

Ông thầy này nói gì lạ hoắc. Nghe chẳng hiểu đâu vào đâu!

Ngài Shokuu càng thêm hùng hổ, hung hăng:

Nói gì hở chú kia? Người gì mà chưa đi tu bao giờ, một chữ bẻ đôi cũng không biết [555]!

Nói xong, ngài mới thấy mình lỡ lời ăn nói vô lối, hốt hoảng rẽ ngựa ra hướng khác, phóng như chạy trốn.

Nếu có ai hiểu được nghĩa lý của câu nói sẽ thấy những lời trách mắng của ngài thật đáng nể [556]

Đoạn 107: Trả lời câu hỏi của đàn bà

Khi được các bà dò hỏi điều gì, thật ít thấy đấng nam nhi nào đủ thông minh để có thể trả lời một câu nghe được. Thời thái thượng hoàng Kameyama [557], bọn nữ quan tinh quái ma mãnh mỗi lần thấy mấy ông quan trẻ vào chầu trong nội, hay hỏi những câu kiểu như:

Thế năm nay, ông đã nghe tiếng cuốc (đầu mùa) chưa nhỉ? [558]

Để xem tài đối đáp của các vị ấy đến đâu. Có ông quan Dainagon (tham nghị cấp cao) họ Mỗ nọ đã trả lời:

Bẩm thân phận thấp hèn như tôi thì sao có thể nghe được ạ!

Còn quan nội đại thần Horikawa thì đáp:

Hình như tôi đã có lần nghe ở Iwakura. [559]

Các nữ quan bình luận với nhau:

Câu trả lời của ông này còn nghe được chứ kiểu xưng hô thân phận thấp hèn của ông kia thật khó lọt tai!

Hầu như tất cả những người đàn ông đều được nuôi nấng dạy dỗ làm sao để tránh khỏi bị đàn bà chê cười. Có người kể rằng:

Ngài đại thần ở chùa Jodo [560], nguyên giữ chức kanpaku (chuyên việc thưa bẩm với vua), lúc nhỏ đã được hoàng thái hậu Ankimonin* [561] _dạy dỗ rèn cặp nên biết đối đáp lanh lợi.*

Ngài tả đại thần Yamashina [562] thì nói:

Khi bọn thị nữ hầu hạ có mặt là mình đủ đã ngượng chín và bắt buộc phải giữ ý.

Nếu cõi đời này không có mấy bà thì cách đội mũ hay mặc quần áo (của đàn ông chúng ta) thế nào cũng xong thôi, chẳng cần phải tề chỉnh làm gì.

Ta cứ ngỡ hạng đàn bà hiếp đáp đàn ông được như thế là thứ giỏi giang lắm, thật ra họ chỉ là những kẻ tính tình lươn lẹo, coi mình bằng trời, đầy lòng tham và không biết một chút lý lẽ. Họ chỉ để mặc cho lòng mê lầm dẫn lối, ăn nói tuy có vẻ khéo léo tinh vi nhưng khốn thay, khi bị người ta đặt những câu hỏi tầm thường cũng không có lấy câu trả lời đáng lọt tai.

Khi ta đang tưởng họ sẽ lễ phép ngồi im thì thoắt cái họ đã mở miệng nói lung tung, ngay cả những gì chẳng ai hỏi tới. Cái khéo léo thêu dệt bề ngoài của họ tưởng chừng đánh lừa được trí thông minh của đàn ông nhưng họ quên rằng không có gì che dấu nổi sự thật. Đàn bà thật là giống không thực thà và chẳng biết nghĩ đến nơi đến chốn. Thật là khó chịu khi phải uốn lưng để chìu theo ý các bà. Có bà nào xứng đáng được ta thần phục như thế không? Cho dầu có một người đàn bà thông minh hiền đức xuất hiện trên đời thì người đó cũng chỉ là kẻ khó gần gũi và thân mật được. Chỉ có anh đàn ông khi mê mệt đàn bà và đánh mất lý tính thì mới thấy đàn bà là đáng yêu và thanh nhã [563].

Đoạn 108: Không ai biết nuối tiếc thời gian

Không thấy ai tỏ ra nuối tiếc từng khoảnh khắc ngắn ngủi trôi qua [564] Chẳng lẽ vì mọi người đều đã ý thức điều đó, hoặc giả họ ngu ngốc đến nỗi không biết tiếc thời khắc. Nếu cần nhắn nhủ một lời cho những ai ngu si chểnh mảng như thế, ta chỉ xin thưa rằng đúng là một đồng xu không có nghĩa lý gì nhưng khi tập hợp và chồng chất chồng lên nhau thì anh nhà nghèo cũng trở thành giàu có. Vì vậy người đi buôn mới cắc củm từng đồng bạc một.

Sát na là một đơn vị thời gian quá nhỏ nhoi thế nhưng cứ để nó thi nhau kéo tới thì cái giờ chết cũng chẳng mấy chốc đã đến bên lưng ta. Do đó, người tu tập theo còn đường của Đức Phật không có quyền tiếc nuối ngày tháng xa xôi tận đâu đâu mà phải biết quý trọng cái giây phút đang oan uổng trôi qua trước mắt. Ví dụ như có ai đó đến với ta và cho biết ngày mai ta sẽ tới số, thử hỏi hôm nay cho đến khi nắng tắt, ta sẽ mong đợi những gì và sẽ hành động như thế nào?

Cái ngày chúng ta đang sống so với cái ngày ta hết số đó thực chất chẳng khác gì nhau. Hôm nào ta cũng ăn, cũng uống, cũng bài tiết, cũng ngủ nghỉ, cũng nói năng, cũng đi lại, nghĩa là ta mất nhiều thì giờ để làm những việc chẳng đặng đừng. Thời giờ gọi là nhàn hạ không có là bao mà ta lại đem phung phí để làm những chuyện không đáng làm, nói những câu không đáng nói, nghĩ những điều không đáng nghĩ. Trọn ngày trọn tháng rồi trọn đời phí phạm thời gian như thế thì hỏi thử còn có gì ngu ngốc hơn chăng?

Tạ Linh Vận [565] là người từng có công đức hiệu đính bản dịch bộ kinh Pháp Hoa [566] nhưng vì lòng còn nhiều dục vọng [567] nên bị ngài Huệ Viễn [568] không cho dự phần vào nhóm Bạch Liên Xã [569]. Nhất định những ai không biết giá trị của thời gian đều đáng bị xem là người đã đánh mất đi ý nghĩa của cuộc sống, là người coi như chết rồi. Tiếc thời gian (sử dụng thời gian một cách tích cực), hỏi để làm gì? Xin thưa, đó là để lòng mình không vướng bận điều lo nghĩ vớ vẩn, chung quanh mình khỏi xảy ra chuyện thế sự lăng nhăng, khi muốn (tập trung tinh thần) thôi làm việc ác thì dứt được liền việc ác, còn muốn làm điều thiện thì làm được ngay điều thiện [570].

Đoạn 109: Người rành nghề leo cây

Có người nổi tiếng là vua leo cây [571]. Ông ta thường làm công việc chỉ dẫn người khác leo lên những cây thật cao để chặt nhánh trên ngọn. Khi người leo đang ở đoạn tưởng chừng nguy hiểm, chẳng nghe ông ta nói gì. Đến khi anh ta tụt xuống đến chỗ cao cỡ ngang mái nhà, ông ấy mới bắt đầu lên tiếng:

Xuống cho khéo nhé. Đừng để ngã bị thương!

Ta bèn hỏi thăm:

Đã tụt xuống chỗ thấp như thế này thì chỉ cần nhảy phóc một cái là chạm đất. Vì cớ gì lúc ấy ông lại khuyên anh ta phải thế này thế nọ?

Ông mới giải thích:

Vâng, quan trọng là ở điểm đó. Ở độ cao thấy hoa cả mắt, lúc ngỡ là cành có thể gãy lúc nào không biết, người leo cây hết sức chú ý nên mình không cần phải khuyên lơn gì cả. Người ta hay bị thương lúc xuống chỗ thấp và nghĩ là an toàn rồi.

Ông giỏi nghề leo cây kia chỉ là kẻ địa vị thấp hèn nhưng lời nói sao chẳng khác điều các bậc thánh hiền dạy dỗ [572]. Đá cầu [573] nghe đâu cũng vậy. Người đá cầu khi đã tập trung tinh thần đá được quả cầu khỏi nơi khó khăn rồi thì lại yên trí và đâm ra lơ đễnh, thế nào cũng để cầu rơi xuống đất.

Đoạn 110: Người giỏi chơi cờ song lục [574]

Khi hỏi thăm một người nổi tiếng sành chơi cờ song lục (sugoroku) thế nào là bí quyết để đánh cho giỏi thì ông ta giảng:

Đánh mà nghĩ rằng mình đánh để thắng là không được. Phải đánh để đừng thua. Suy nghĩ đánh quân nào sẽ bị thua nhanh và tránh đi nước ấy. Cứ chọn cách đi quân nào làm mình chậm thua thêm một ô mà đánh là tốt [575].

Rõ ràng là người đạt đạo trong lĩnh vực này. Lời nói của ông còn có thể áp dụng cả vào việc tu thân, trị quốc nữa.

Đọc Đồ Nhiên Thảo, chương 01 tại đây.

Đọc Đồ Nhiên Thảo, chương 02 tại đây.

Đọc Đồ Nhiên Thảo, chương 03 tại đây.

Đọc Đồ Nhiên Thảo, chương 04 tại đây.

Đọc Đồ Nhiên Thảo, chương 05 tại đây.

Đọc Đồ Nhiên Thảo, chương 06 tại đây.

Đọc Đồ Nhiên Thảo, chương 07 tại đây.

Đọc Đồ Nhiên Thảo, chương 09 tại đây.

Đọc Đồ Nhiên Thảo, toàn tập tại đây.

nhavantuonglai

Share:
Quay lại.

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »
Thích Nhất Hạnh | Trái tim mặt trời

Thích Nhất Hạnh | Trái tim mặt trời

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người sáng lập tông phái Làng Mai được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân khai sáng chánh niệm giúp…

Edgar Allan Poe | The spectacles

Edgar Allan Poe | The spectacles

Edgar Allan Poe (1809 – 1849) là một trong những nhà văn nhà thơ và nhà phê bình văn học nổi tiếng nhất nước Mỹ.

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.