Nhiều tác giả | Người thầy của tỉnh thức và thương yêu | Chương 13
Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường Xưa Mây Trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh.
· 26 phút đọc.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà sư, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội và hòa bình nổi tiếng trên thế giới. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân. Ông cũng là người đưa ra khái niệm chánh niệm, một phương pháp tu tập và sống đời giúp con người tĩnh tâm, hạnh phúc và hòa hợp với bản thân, với mọi người và với thiên nhiên.
Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Melvin McLeod. Chủ bút tạp chí Lion_s Roar – trước đây là Shambala Sun, đăng ngày 26.4.2010.
Trong cuộc phỏng vấn này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói về tình thương đích thực, những lợi ích của khổ đau và tuệ giác giúp chúng ta được giải thoát, tự do. Thầy nói rằng Thầy giảng dạy về Phật giáo Nguyên thủy theo tinh thần Đại thừa. Tôi có thể nói rằng cho đến hôm nay, tôi chưa gặp được một ai khác có thể truyền đạt những giáo lý cốt tủy của đạo Bụt một cách rõ ràng và sâu sắc như Thầy.
Kính thưa Thầy, vì sao chánh niệm là chìa khóa của hạnh phúc?
Chánh niệm đưa đến định. Định đưa đến cái thấy thâm sâu là tuệ giác. Tuệ giác có công năng giải phóng ta khỏi sự mê mờ, giận hờn và tham đắm. Khi ta thoát khỏi được phiền não thì hạnh phúc có mặt. Làm sao ta có thể hạnh phúc được khi trong ta đầy ắp giận hờn, si mê và tham lam? Thế nên cái thấy sâu sắc – tuệ giác – có công năng cởi trói cho ta khỏi những ràng buộc khổ lụy ấy chính là chìa khóa của hạnh phúc. Có rất nhiều điều kiện hạnh phúc đang có mặt, nhưng ta thường ít để ý nhận diện nó, bởi vì chúng ta không đủ chánh niệm.
Khi thân và tâm trở về một mối thì ta thật sự có mặt, ta thật sự đang sống. Ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt bây giờ và ở đây. Thành ra, ta không chỉ thực tập với tâm, mà còn thực tập với thân của mình nữa. Thân và tâm phải hợp nhất, không phải là hai thực thể tách rời. Trên căn bản ấy, ta sẽ thấy những gì ta đang tìm cầu đã có mặt từ lâu rồi, cho dù cái mà ta tìm cầu là giác ngộ, niết bàn, giải thoát, Phật, Pháp, Tăng hay là hạnh phúc, tất thảy đều đang có mặt. Thực ra, địa điểm duy nhất và thời điểm duy nhất mà ta có thể tìm được những cái kể trên là bây giờ và ở đây.
Ngược lại, khi thân và tâm tách rời, khi chúng ta bị lạc lối trong suy nghĩ và không còn ở hiện tại, phải chăng chúng ta đang dẫn dắt một xác chết.
Có thể trên bề mặt trí năng, ai cũng đều biết rằng ta phải sống trong phút giây hiện tại, nhưng thói quen để cho tâm bị trôi lăn, phân tán đã hiện diện trong ta lâu lắm rồi. Nó cứ đẩy ta đi vòng vòng, cho nên ta đánh mất khả năng có mặt để sống sâu sắc trong phút giây hiện tại. Vì thế sự thực tập rất quan trọng. Nếu chỉ hiểu và nói về nó thôi thì chưa đủ. Ta phải thực tập đủ lâu để có thể thực sự dừng lại thói quen rong ruổi và thiết lập thân tâm trong phút giây hiện tại. Đó là sự thực tập rất cơ bản: dừng lại. Dừng lại, nhìn sâu và tìm ra hạnh phúc, tự do. Đó là con đường của Bụt.
Thầy thường nhấn mạnh đến niềm vui trong sự thực tập – niềm vui khi đặt những bước chân trên mặt đất, niềm vui khi thở vào một hơi thở chánh niệm. Có thể vì cái quá khứ học Phật quá cứng nhắc và nghiêm khắc của chúng tôi mà chúng tôi thấy dễ chấp nhận hơn khi nghe rằng mình tu theo Bụt thì tu làm sao cho cứng cỏi, không để bị kéo đi bởi niềm vui. Chúng tôi gần như cảm thấy tôn giáo mà gắn liền với niềm vui và ăn mừng sự sống thì hình như có gì không đúng lắm.
Tôi nghĩ rằng phần đông khi nghe giáo lý của Bụt về bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ diệu đế), nhất là sự thật đầu tiên, họ nghe những chữ như khổ đau, phiền não cho nên họ nghĩ đạo Bụt chỉ nói đến khổ đau mà thôi. Nhưng họ không nhớ rằng sự thật thứ ba là nói về hạnh phúc, đối lập với phiền não, khổ đau. Bốn sự thật mầu nhiệm mà Bụt dạy là: 1. Có khổ đau, có phiền não; 2. Có con đường đưa ta đến chỗ khổ đau; 3. Có thể chấm dứt khổ đau, nghĩa là có hạnh phúc; 4. Có con đường dẫn tới hạnh phúc. Có lẽ chúng ta nên trình bày giáo lý Tứ diệu đế bắt đầu bằng hai sự thật thứ 3 và thứ 4 trước, cụ thể là: 1. Sự có mặt của hạnh phúc; 2. Có con đường đưa tới hạnh phúc; 3. Sự có mặt của khổ đau; 4. Có con đường đưa tới khổ đau.
Khi có chánh niệm, ta khám phá ra nhiều niềm vui nhưng đồng thời cũng khám phá ra nhiều niềm đau và thương tích trong ta, đó là kinh nghiệm khó xử khi thực tập chánh niệm. Vậy khi khổ đau trỗi dậy, chúng ta cần thực tập như thế nào thưa Thầy?
Khổ đau và hạnh phúc tương tức với nhau. Chúng ta có thể nhận diện được hạnh phúc dễ dàng hơn nhờ vào nền tảng khổ đau trong quá khứ. Ví dụ như ta thấy rõ hơn những chữ trắng nếu nó nằm trên nền đen. Nếu ta đã từng bị đói, ta mới thấm thía được niềm hạnh phúc khi có thứ gì đó để ăn. Nếu ta đã từng khổ đau vì chiến tranh, ta mới cảm nhận được giá trị lớn lao của hòa bình. Nếu không, ta sẽ không trân quý hòa bình, ta chỉ muốn đánh giặc thôi. Thành ra, kinh nghiệm của ta về khổ đau trong chiến tranh sẽ giúp ta tìm nhiều cách để gìn giữ hòa bình. Vì thế nếu có một chút khổ đau cũng là điều hữu ích, nhờ vào nền tảng khổ đau ấy mà ta nhận diện được hạnh phúc.
Phần đông chúng ta ai cũng có khuynh hướng tìm kiếm khoái lạc và trốn tránh khổ đau. Điều này có gốc rễ sâu xa từ một phần trong tàng thức của ta, gọi là mạt-na thức (tiếng Phạn là manas). Mạt-na chỉ muốn tìm kiếm dục lạc và lẩn tránh khổ đau. Vì bị vô minh che lấp nên mạt-na không thấy được những hiểm nguy của sự tìm kiếm dục lạc ấy. Như con cá đã được báo trước là hãy coi chừng những miếng mồi ngon vì bên trong có thể có lưỡi câu móc họng, nhưng nó vẫn không cưỡng được sự cuốn hút của miếng mồi. Mạt-na không nhận thấy được hiểm nguy của sự tìm kiếm dục lạc, và cũng không nhận thấy rằng khổ đau cũng có ý nghĩa của nó. Khổ đau một chút cũng tốt, bởi vì khổ đau giúp cho ta chế tác hiểu biết và thương yêu.
Bởi vì mạt-na không thấy được những hiểm nguy của dục lạc, cũng như không biết đến cái lợi lạc của bài học khổ đau nên chúng ta phải chuyển tải vào tàng thức cái thấy (hay tuệ giác) mà ta có được trong khi thiền tập. Bởi vì suy tư trên bề mặt ý thức thôi thì chưa đủ để đem lại một sự chuyển hóa tận gốc. Cái mà ý thức có thể làm là quán chiếu để đạt tới cái thấy sâu sắc và chuyển tải cái thấy đó xuống tàng thức.
Cái thấy đầu tiên cần được nhấn mạnh là thấy rằng sự tìm kiếm dục lạc rất nguy hiểm và trốn tránh khổ đau không phải là điều hay, bởi vì khổ đau cũng có lợi ích của nó. Nếu ta có chánh niệm, nếu ta đủ can đảm để trở về với chính ta và ôm ấp nỗi khổ trong lòng thì ta sẽ học được nhiều lắm và ta có thể chuyển hóa khổ đau. Nếu ta luôn tìm cách trốn chạy khổ đau thì ta sẽ không có cơ hội chuyển hóa. Bởi vậy cho nên Bụt dạy ta, trước hết là chấp nhận sự thật thứ nhất, sự thật là mình đang có khổ đau. Sau đó là nhìn sâu vào khổ đau để có thể tìm ra sự thật thứ hai là nguyên nhân đưa ta đến cái khổ đó. Đó là cách duy nhất để cho sự thật thứ tư, con đường hành trì để chuyển hóa khổ đau, đưa tới hạnh phúc có thể được hiển lộ. Vì thế ta nên nhấn mạnh đến vai trò của khổ đau. Nếu ta quá sợ khổ đau thì chúng ta không có cơ hội có được những khám phá ấy.
Tôi nghĩ là ai trong chúng ta cũng từng thương một người trong cuộc đời. Ta sẽ sẵn sàng gánh chịu hết những khổ đau của người đó cũng như sẵn sàng trao tặng cho người đó những hạnh phúc ta có. Trải rộng tình thương đó ra cho nhiều người, và cuối cùng là cho tất cả mọi người, là điều hay nhất mà ta có thể làm để giúp cho thế giới tốt đẹp hơn. Vậy theo Thầy, làm sao để tình thương trong ta có thể lớn lên và trải rộng ra cho tất cả mọi người?
Ngay giây phút lọt lòng mẹ, ta đã trải nghiệm sự sợ hãi – nỗi sợ nguyên thủy. Cái sợ đầu tiên đó thật lớn, thật sâu bởi vì ta có thể chết trong giây phút trọng đại, nguy ngập ấy. Ta vừa rời khỏi cung điện ấm áp (tử cung) của mẹ và sợi dây rốn gắn kết ta với mẹ không còn nữa. Giờ đây ta phải tự thở lấy. Phổi của ta khi ở trong bụng mẹ thì có nước, nhưng trong giây phút trọng đại này, ta phải đẩy thứ nước ấy ra khỏi phổi để tự hít vào hơi thở đầu tiên, nếu làm không được thì ta sẽ chết.
Thành ra, đó là lần đầu tiên ta kinh nghiệm về nỗi sợ hãi, và ước muốn được sống còn cũng phát sinh từ giây phút ấy. Là một em bé sơ sinh, ta thấy ta thật bất lực. Ta sẽ không sống sót nổi nếu không được ai chăm sóc. Khi nghe bước chân của ai đó đến gần và nhận ra đó là người chăm sóc cho ta thì ta hạnh phúc. Cả ngày ta chỉ chờ đợi tiếng bước chân đến gần bởi vì ta biết sau tiếng bước chân ấy có sữa, có sự ấm áp, có mọi thứ… Đó là cái sợ ban đầu và cái thèm khát ban đầu được phát sinh.
Rồi khi ta lớn lên, cái thèm khát có một người yêu cũng là sự tiếp nối từ cái thèm khát ban đầu đó. Ta thấy cần có một người để chăm sóc ta, nếu phải sống một mình thì thiếu thiếu cái gì đó và ta thấy hơi bất lực, mong manh. Ta không tự thấy yên tâm nếu chỉ sống một mình, vì vậy cứ tìm cách có một người yêu cùng sống bên nhau. Điều ấy cũng chứng tỏ là cái thèm khát ban đầu (khi mới sơ sinh) vẫn còn đó, rằng ta không cảm thấy an tâm nếu không có ai bên cạnh.
Thế nên người yêu, người bạn hôn phối cũng là một sự tiếp nối cái thèm khát ban đầu, cái nhu yếu có mẹ, có cha kề bên. Ta thấy có sự an ổn ngay khi có mẹ, có cha kề bên. Thật ra không phải sự có mặt thật sự của cha, của mẹ mới làm cho ta an tâm. Chính cái ý niệm mẹ đang ở đây mà hay cha đang ở đây mà đã khiến cho ta có cảm giác an ổn rồi. Nhưng sau một thời gian thì ta thấy người ở kề bên ta làm phiền ta quá và ta muốn ly dị. Thế nên thật ra không phải vì sự hiện diện của anh chàng hay cô nàng ấy cho ta có cảm tưởng thoải mái mà chính là cái ý niệm trong đầu và cái thèm khát ban đầu khi còn bé thơ đã sai khiến ta.
Trong đạo Bụt, tình thương lúc nào cũng cần bắt đầu với chính mình, trước khi thương yêu một ai khác trong cuộc đời. Thương yêu theo phương pháp Bụt dạy là ta cần trở về với chính ta và nhận diện được nỗi khổ, niềm đau trong ta. Sự hiểu biết sâu sắc nỗi khổ của tự thân khiến ta nhẹ ra và biết thương mình nhiều hơn, bởi vì ta cảm thấy có sự mãn ý, sự toàn vẹn trong chính con người mình. Và vì thế ta không cần phải tìm kiếm một người nào khác để bắt đầu thương yêu. Ta nên bắt đầu với chính ta.
Tình thương chân thật không phải chỉ dành cho một người. Khi tình thương có mặt, ta tỏa rạng như một ngọn đèn. Ánh sáng mà đèn tỏa chiếu ra không phải chỉ dành cho một người mà là dành cho tất cả mọi người có mặt trong không gian đó. Cũng thế, nếu trong ta thật sự có tình thương thì mọi người quanh ta đều được thừa hưởng – chẳng những con người mà ngay cả cầm thú, cỏ cây và đất đá cũng được thừa hưởng. Tình thương chân thật là như vậy. Trong tình thương chân thật có yếu tố xả, tức là bao trùm tất cả, không phân biệt một ai.
Như vậy muốn trải tình thương ra thật rộng, thật xa thì trước tiên ta nên tập thương chính mình, làm cho mình trở thành một con người toàn vẹn, viên mãn?
Đúng vậy!
Trong một buổi thiền tập, Sư cô Chân Không hướng dẫn chúng tôi nhìn sâu để tiếp xúc với những điều kiện và yếu tố khác nhau đã làm nên con người chúng ta và những yếu tố đó vẫn đang có mặt trong ta như: cha mẹ, tổ tiên huyết thống, tổ tiên tâm linh và nhiều yếu tố văn hóa, xã hội, v.v… Sự thực tập này mang lại những lợi ích gì?
Cái ngã được làm bởi những yếu tố không phải là ngã, đó là tuệ giác vô ngã. Tuệ giác ấy có công năng giải phóng ta. Chúng ta được làm bởi những yếu tố không phải là ta. Khi nhìn sâu, ta sẽ thấy trong ta có cha mẹ, tổ tiên, văn hóa, xã hội, v.v… nói chung là có tất cả.
Có nhiều giảng sư Phật giáo giảng dạy giáo lý tương tức bằng những danh từ rất trừu tượng. Tôi nghĩ rằng giáo lý Bụt dạy có thể được diễn bày một cách rất đơn giản, dễ hiểu và ngay cả trẻ em cũng có thể hiểu được. Sáng nay chúng ta đã được hướng dẫn một buổi thiền tập quán chiếu về sự có mặt của gia đình huyết thống trong ta: Thở vào tôi thấy cha tôi là một em bé năm tuổi, rất mong manh và dễ bị thương tích; Thở ra, tôi cười với em bé là cha tôi với nụ cười hiểu biết và xót thương. Cách quán chiếu như vậy có thể giúp ta tiếp xúc được với tự tánh vô ngã. Khi biết ta được làm bởi các yếu tố không phải là ta, ta có thể thấy cha ta vẫn đang có đó trong ta. Cha ta đang thực sự sống trong từng tế bào của thân thể ta và những đau khổ của cha cũng vẫn còn đó trong ta.
Thực tập như vậy sẽ đưa tới tuệ giác tương tức và vô ngã. Nếu ta đang giận cha thì tuệ giác này có thể giải phóng ta khỏi những giận hờn, oán trách đó.
Tại sao ta quán chiếu những yếu tố vô ngã trong ta không những bằng tuệ giác mà còn bằng tình thương?
Tuệ giác và tình thương là một. Tuệ giác đưa tới tình thương và tình thương không thể nào có được nếu không có hiểu, không có tuệ giác. Nếu ta không hiểu thì ta không thể nào thương được. Tuệ giác là cái hiểu trực tiếp, không phải là những khái niệm, những tư duy trừu tượng. Trong thiền quán, ta phải để cho ánh sáng của tuệ giác soi sáng ta.
Đôi khi việc sử dụng hình ảnh có thể giúp ta hiểu một cách sâu sắc hơn. Ví dụ tôi hay dùng hình ảnh hạt bắp và cây bắp để giải thích cho các em nhỏ về tính tương tức. Tôi nói với các em rằng thật khó để giúp cho một cây bắp hiểu rằng nó từng là một hạt bắp. Thế nhưng đó là sự thật, và nếu ta thực sự nhìn theo cách đó, ta sẽ thấy được sự tương tức giữa hạt bắp và cây bắp. Bởi vì nếu không có hạt bắp thì làm sao có được cây bắp? Cũng tương tự như vậy đối với cha mẹ và con cái. Nếu ta chạm được sự thật đó qua thiền quán thì những giận hờn, trách móc sẽ tan biến và tình thương có thể phát sinh.
Là một bậc thầy trong truyền thống thiền, với sự hiểu biết uyên thâm về các truyền thống Phật giáo khác, vậy mà suốt quá trình dạy cho thiền sinh trong năm ngày liên tiếp, Thầy chỉ nói phớt qua về khái niệm thiền. Thay vào đó, Thầy chỉ dạy về những giáo lý căn bản của đạo Bụt như pháp môn chánh niệm, bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ diệu đế). Vì sao Thầy lại chọn hướng đi này?
Khi nói về đạo Bụt, chúng ta biết rằng có đạo Bụt Nguyên thủy – bắt đầu từ khi Bụt thành đạo cho đến khi tăng đoàn phân chia thành nhiều bộ phái, và nhiều trường phái của đạo Bụt được phát sinh bởi những thế hệ sau. Nhưng cho dù là đạo Bụt Nguyên thủy, Thiền tông, Thiên Thai tông hay Kim Cương Thừa thì đó cũng là những điều Bụt dạy. Sự nghiệp của Bụt đã được tiếp nối bởi các vị đệ tử của Ngài. Tuệ giác và giáo pháp của Ngài vẫn được trao truyền qua nhiều thế hệ dù Ngài đã nhập niết bàn từ lâu. Ta thấy được Bụt qua nhiều thế hệ các bậc đại sư và đệ tử của họ.
Điều mà tôi đang làm là trình bày những phương pháp thực tập thuần túy của Phật giáo Nguyên thủy trong tinh thần của Phật giáo Đại thừa. Phật giáo Đại thừa có cái nhìn rất cởi mở, không gò bó và thật là tuyệt vời khi học hỏi Phật giáo Nguyên thủy bằng tinh thần khoáng đạt này. Khi ta sử dụng con mắt của Phật giáo Đại thừa để tìm hiểu, nhìn sâu vào Phật giáo Nguyên thủy, ta có thể khám phá ra biết bao nhiêu điều kỳ diệu và sâu sắc. Ta nhận ra rằng những lời dạy sâu sắc nhất của Phật giáo Đại thừa có thể tìm thấy trong các kinh điển Nguyên thủy. Những tư tưởng phóng khoáng của Đại thừa đã có rành mạch trong các kinh Nguyên thủy.
Những hạt giống của Phật giáo Đại thừa đã có đầy đủ từ trong Phật giáo Nguyên thủy. Thành ra khi ta dùng từ Phật giáo Nguyên thủy điều đó không có nghĩa là ta loại ra ngoài những bộ phái khác, những truyền thống mới khai triển sau này. Tôi chỉ muốn đem tất cả các truyền thống về với gốc rễ nguyên thủy của mình. Như vậy, Phật giáo Nguyên thủy được xem như mẫu số chung của tất cả các truyền thống Phật giáo. Do đó điều mà tôi muốn cống hiến là truyền đạt những điều Bụt dạy khi Ngài còn tại thế trong tinh thần Đại thừa.
Những giáo lý Bụt dạy khi Ngài còn tại thế rất đơn giản, nhưng cũng rất thâm sâu. Nhiều học giả đã làm cho đạo Bụt trở nên rắc rối, biến đạo Bụt thành một loại siêu hình học hay một loại triết học. Một số sinh viên Phật học đã bỏ quá nhiều thì giờ cho những hệ thống tư duy này mà không có thì giờ tu tập. Cũng như thiền sư Lâm Tế (Trung quốc gọi là Linji, Nhật gọi là Rinzai), Ngài học rất nhiều về Phật pháp nhưng sau đó cảm thấy không đủ. Vì thế Ngài bỏ hết những học thuyết và bắt đầu thực hành.
Phật giáo ở phương Tây còn đang trong giai đoạn sơ khai, Thầy có cho rằng Phật giáo Nguyên thủy có thể sẽ hợp với người Tây phương hơn là những giáo lý được khai triển sau này không?
Không phải một giáo lý riêng biệt nào mới thích hợp với thời đại chúng ta, mà quan trọng là cách ta hiểu giáo lý như thế nào – điều này phụ thuộc vào cách tiếp cận giáo lý của chúng ta. Nếu ta là một học giả và chỉ sử dụng trí năng mà thôi thì ta có thể giải thích giáo lý theo cách này, trong khi nếu là một hành giả thực tập thật sự thì có thể ta sẽ khám phá được chiều sâu của giáo lý và tiếp xúc được với tuệ giác phát sinh từ sự thực tập của ta. Và nhờ thế, ta có thể trình bày giáo lý kia một cách hoàn toàn khác hẳn với người chỉ dùng trí năng. Thành ra vấn đề không phải giáo lý này hay hơn, hay giáo lý kia thích hợp hơn, vấn đề là cách ta thực tập, trải nghiệm và áp dụng giáo lý vào sự tu tập của mình có phù hợp hay không.
Tuy vậy, phải nói rằng thật kỳ diệu là bài pháp thoại đầu tiên do Bụt thuyết vẫn còn thích hợp với thời đại chúng ta. Sau 2500 năm, bài thuyết pháp đầu tiên của Bụt vẫn có giá trị vững chãi. Trong bài thuyết pháp đầu tiên ấy, ta có thể tìm được đầy đủ những điều Bụt dạy mà ta có thể thực tập suốt đời. Điều đó thật đáng kinh ngạc.
Trong những lời dạy của mình, Thầy nhấn mạnh đến yếu tố tăng thân – một nhóm người cùng tu tập chung. Thầy dạy về điều này nhiều hơn các vị thầy khác. Tại sao yếu tố tăng thân lại quan trọng như thế đối với Thầy?
Xây dựng tình huynh đệ là nền tảng thiết yếu của một tăng thân. Nếu tăng thân hạnh phúc thì đó sẽ là nơi nương tựa cho nhiều người. Chúng tôi bắt đầu xây dựng tăng thân từ nhiều thập niên trước và giờ đây tăng thân chúng tôi đang trở nên lớn mạnh và vững chãi. Trong những khóa tu, chúng ta có thể cảm nhận được rất rõ năng lượng vững chãi của tăng thân, đặc biệt là với sự tham dự của nhiều người đã từng tu tập lâu năm. Trong kinh có nhắc đến câu chuyện về vua Ba Tư Nặc (Presenajit) của nước Kosala. Ngài gặp Đức Thế Tôn lần cuối, khi ấy cả hai đều đã 80 tuổi, nhà vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi đức Thế Tôn. Tôi thấy thật ý nghĩa khi mọi người có thể thấy được Bụt qua tăng thân của Người. Tăng thân là công trình, là tác phẩm lớn nhất của Bụt. Bụt là một nghệ sĩ và tăng thân là công trình nghệ thuật của người nghệ sĩ ấy. Thành ra, Bụt vẫn đang sống cho đến ngày hôm nay trong tăng thân. Khi bạn thấy các thầy, các sư cô cùng các bạn cư sĩ tu tập nghiêm túc, thảnh thơi và an lạc là bạn có thể thấy được sự hiện diện của Bụt.
Thầy đã cho một bài pháp thoại tại New York với đề tài: Xây dựng một xã hội lành mạnh và từ bi. Thế nào là con đường đưa tới một xã hội lành mạnh và từ bi? Năm phép tu tập chánh niệm mà Thầy đã làm mới lại trên nền tảng Năm giới của đạo Bụt truyền thống để thích hợp với tình trạng của xã hội hiện đại, đó có phải là cẩm nang để đưa tới một xã hội lành mạnh và từ bi không?
Tuệ giác tương tức có khả năng tháo gỡ sự kỳ thị, sợ hãi và cách tư duy lưỡng nguyên trong ta. Chúng ta tương tức với nhau, ngay cả hạnh phúc và khổ đau cũng tương tức với nhau, vì vậy tuệ giác tương tức phải được xem là nền tảng cho bất cứ hành động nào. Tuệ giác ấy có thể đem tới hòa bình, tình huynh đệ cũng như giúp chuyển hóa bạo động và tuyệt vọng. Tuệ giác này có mặt trong tất cả các truyền thống tâm linh. Ta chỉ cần trở về với chính truyền thống tâm linh của ta và gắng làm sống lại những hạt giống tuệ giác ấy.
Năm phép tu tập chánh niệm (hay còn gọi là Năm giới) là biểu hiện cụ thể của sự thực tập từ bi. Trong truyền thống Phật giáo, chúng tôi luôn học hỏi cách thức để áp dụng Năm giới một cách hữu hiệu trong đời sống hằng ngày. Năm giới quý báu ấy là để thực tập, chứ không phải để suy luận và nghiên cứu. Ghi tên để xin thọ nhận Năm phép tu tập chánh niệm ấy không phải là ký tên ủng hộ một kiến nghị mà là làm cho nó trở thành sự sống của chính mình, trở thành con đuờng tu tập của mình. Bạn sẽ rất hạnh phúc vì biết rằng mình đã có đường đi – con đường của hiểu biết và thương yêu. Và khi đã có đường đi rồi thì bạn không còn lý do gì để lo sợ về tương lai của mình nữa cả.
Bạn có thể chia sẻ con đường lý tưởng của mình, chia sẻ cách mình tu tập để nuôi dưỡng, phát triển hiểu biết và tình thương với các bạn thuộc truyền thống khác. Họ không cần trở thành Phật tử để có thể thực tập theo Năm giới, họ chỉ cần trở về truyền thống tâm linh của họ, sống cho sâu sắc và tìm cho ra những phương thức tương đương với năm phép tu chánh niệm của Phật tử nơi chính truyền thống tâm linh của mình.
Mục đích của chúng tôi không phải là để thay đổi niềm tin của các bạn từ truyền thống khác và biến họ thành Phật tử, mà chỉ là chia sẻ con đường của hiểu biết và thương yêu. Các bạn vẫn tiếp tục là tín hữu Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo hay Hồi giáo, mà vẫn có thể thực tập như chúng tôi đang làm. Chúng tôi dùng ngôn từ Phật giáo, còn các bạn thì có thể dùng ngôn từ Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, v.v… mà tu tập và chúng ta sẽ cùng đi đến một kết quả như nhau. Thế nên ta mới có thể gọi đó là một đường hướng tâm linh toàn cầu hay một nền đạo đức toàn cầu.
Sẽ rất tuyệt vời nếu tất cả các vị lãnh đạo tâm linh từ nhiều truyền thống khác nhau có thể đến cùng nhau và bàn bạc làm thế nào xây dựng một nền đạo đức toàn cầu để mọi người đều có thể cùng nhau tu tập.
Có thể họ không cần đến với nhau tại một nơi cụ thể. Họ chỉ cần ngồi yên nơi chốn của họ và tu tập, làm khơi dậy cái hiểu cho thâm sâu và mở rộng tình thương đến với mọi người, mọi loài. Đó là cách gặp nhau sâu sắc nhất.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 01 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 02 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 03 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 04 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 05 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 06 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 07 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 09 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 10 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 11 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 12 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 13 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 14 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 15 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 16 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 17 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 18 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, chương 19 tại đây.
Đọc Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, toàn tập tại đây.