Một thời kỳ Phục Hưng khác, quan trọng hơn mà bạn chưa bao giờ biết đến
Một cuốn sách mới của nhà sử học và tác giả Paul Strathern lập luận rằng thời kỳ Phục Hưng ở Bắc Âu từ lâu đã bị xem nhẹ.
· 10 phút đọc.
Một cuốn sách mới của nhà sử học và tác giả Paul Strathern lập luận rằng thời kỳ Phục Hưng ở Bắc Âu từ lâu đã bị xem nhẹ.
Mở đầu
Vào giữa thế kỷ 15, Giáo hoàng Nicholas V đang lục tìm trong những ngóc ngách của kho lưu trữ Vatican thì tình cờ phát hiện một bản thảo bụi bặm có tựa đề De Medicina (Về Y học). Bản thảo này được viết vào thế kỷ thứ nhất SCN bởi Aulus Cornelius Celsus, vị thầy thuốc xuất sắc nhất của Đế chế La Mã. Nó bao gồm các chương về lợi ích của việc tập thể dục và cách điều trị viêm phổi, cùng nhiều chủ đề khác. Tưởng chừng đã bị thất lạc từ nhiều thế kỷ, bản thảo này lẽ ra đã chìm vào quên lãng nếu không nhờ sự tò mò của Giáo hoàng.
De Medicina là một trong số nhiều văn bản cổ đại mà việc tái phát hiện đã thúc đẩy thời kỳ Phục Hưng. Phong trào này, kéo dài từ khoảng năm 1300 đến năm 1600, thường được nhắc đến liên quan đến nước Ý – và điều này không phải là không có lý. Nhiều văn bản cổ đại nói trên đã xuất hiện tại Ý thông qua các cuộc chinh phục của người La Mã. Ý cũng là quê hương của nhiều nhân vật nổi tiếng trong thời kỳ Phục Hưng, bao gồm Leonardo da Vinci, Niccolò Machiavelli, và Michelangelo, những người có các cống hiến lớn lao cho nhân loại nhờ sự hỗ trợ từ các tài sản mà các thương nhân Ý tích lũy được trên Con đường Tơ lụa.
Tuy nhiên, mặc dù thời kỳ Phục Hưng có thể bắt nguồn từ Ý, nhưng nó không phải là một hiện tượng độc quyền của nước Ý. Trong cuốn sách mới của mình, The Other Renaissance: From Copernicus to Shakespeare: How the Renaissance in Northern Europe Transformed the World (Tạm dịch: Thời kỳ Phục Hưng Khác: Từ Copernicus đến Shakespeare: Thời kỳ Phục Hưng ở Bắc Âu đã làm thay đổi thế giới như thế nào), Paul Strathern – giảng viên triết học tại Đại học Kingston, đồng thời là tác giả của các tác phẩm The Medici và The Borgias: Power and Fortune – lập luận rằng một số sự kiện quan trọng nhất trong giai đoạn này đã diễn ra ở Bắc Âu, thường không liên quan trực tiếp đến những gì xảy ra ở phía Nam.
Trong số các sự kiện đó, Strathern nhắc đến việc phát minh ra máy in của Johannes Gutenberg ở Đức, cuộc Cải cách Tin Lành do Martin Luther khởi xướng (cũng tại Đức), và thuyết nhật tâm của nhà thiên văn học người Ba Lan Nicolaus Copernicus, theo đó Trái đất quay quanh Mặt trời thay vì ngược lại. Ngoài ra, một số chương trong cuốn sách của Strathern dành để ghi nhận những anh hùng ít được biết đến hơn ở khu vực này, như Paracelsus.
Bí ẩn của sự phân hủy
Nhà y học người Thụy Sĩ Theophrastus von Hohenheim không chỉ được nhớ đến với những ý tưởng táo bạo mà còn với cá tính đặc biệt của mình. Ông mặc áo choàng giả kim, mang theo một thanh kiếm lớn bên hông, và lấy tên là Paracelsus, nghĩa là vĩ đại hơn Celsus (vị thầy thuốc La Mã đã được nhắc đến ở trên). Trong buổi giảng khai mạc năm 1526 với tư cách là giáo sư y học tại Đại học Basel, ông khiến cả lớp kinh ngạc khi mang theo một đĩa phân người, cảnh báo rằng nếu các ngươi không hiểu những bí ẩn của sự phân hủy, thì các ngươi không xứng đáng với danh xưng thầy thuốc.
Mặc dù thường được kể lại như một câu chuyện hài hước, giai thoại này thực ra làm nổi bật một thay đổi quan trọng trong tư duy khoa học. Paracelsus sống vào thời kỳ mà y học đang chuyển mình từ những niềm tin vào hòn đá giả kim, chòm sao hoàng đạo, và thuyết thể dịch – quan niệm rằng bệnh tật là do mất cân bằng giữa máu, đờm và mật – sang một cách tiếp cận thực nghiệm hơn. Bằng cách nghiên cứu phân, Strathern viết rằng Paracelsus hy vọng hiểu được cách cơ thể con người hoạt động, hấp thụ dưỡng chất và loại bỏ các chất dư thừa, thường là độc hại.
Hành trình học hỏi và phản kháng
Paracelsus là một kẻ nổi loạn. Khi đọc tác phẩm De Medicina của Celsus (nhờ Vatican), ông đã từ chối các giáo lý chính thống của Thời kỳ Tăm tối. Thay vì theo học tại đại học, ông đi khắp châu Âu và Tiểu Á, thu thập kiến thức y học từ các xã hội vốn bị cô lập về chính trị và văn hóa. Trở về quê hương, ông dùng kiến thức này để chữa trị cho nhà triết học Hà Lan Desiderius Erasmus, người trước đó không thể tìm được cách chữa trị cho căn bệnh bí ẩn của mình.
Với tư cách là một giáo viên, Paracelsus coi trọng kinh nghiệm hơn sách vở. Bệnh nhân là giáo trình của các ngươi, ông nói, giường bệnh là nơi học tập của các ngươi. Giống như Luther, người đã dịch Tân Ước để các tín đồ Cơ Đốc có thể tự đọc mà không cần sự can thiệp của mục sư, Paracelsus cũng giảng dạy bằng tiếng Đức thay vì tiếng Latinh quen thuộc. Theo Strathern, ông làm như vậy để được tất cả các thợ cạo–bác sĩ, giả kim, và các lang băm lang thang địa phương hiểu được, những người ông công khai mời đến nghe mình giảng dạy.
Trên cầu vồng
Hơn hai thế kỷ trước khi Paracelsus ra đời, một tu sĩ dòng Đa Minh tên Dietrich (Theodoric) xứ Freiberg đã ngước nhìn cầu vồng và tự hỏi đó là gì, nó từ đâu đến và tại sao nó chỉ xuất hiện khi có mưa và ánh sáng mặt trời. Lời giải thích mà các tu sĩ khác đưa ra – rằng cầu vồng là một cánh cổng thực sự dẫn đến thiên đường và là sự thể hiện lời hứa của Chúa với Noah rằng Ngài sẽ không bao giờ tạo ra một trận lụt hủy diệt thế giới nữa – không làm ông thỏa mãn.
Dietrich tìm kiếm câu trả lời không phải trong Kinh Thánh, mà trong một bài bình luận về Quang học của Euclid do nhà toán học người Ả Rập thế kỷ 10 Ḥasan Ibn al-Haytham viết. Al-Haytham đồng ý với quan điểm của nhà hình học Hy Lạp cổ đại rằng thị giác được tạo ra bởi ánh sáng, nhưng trong khi Euclid cho rằng mắt người phát ra ánh sáng đó, Al-Haytham tin rằng mắt chỉ tiếp nhận ánh sáng. Được truyền cảm hứng từ Al-Haytham, Dietrich tự hỏi liệu cầu vồng có thật sự chỉ là ánh sáng mặt trời khúc xạ thành các màu khác nhau qua những giọt mưa.
Thí nghiệm phá vỡ giới hạn
Những người suy nghĩ từ các thế hệ trước có thể chỉ viết lý thuyết của họ ra giấy rồi thôi, nhưng Dietrich cảm thấy cần phải kiểm chứng nó. Thay vì sử dụng một giọt nước thực sự, ông đổ đầy nước vào một chiếc ly thủy tinh tròn lớn, giơ nó lên trước ánh nắng mặt trời và tạo ra cầu vồng thu nhỏ của riêng mình. Không chỉ chứng minh cầu vồng được tạo thành từ gì, ông còn giải thích tại sao chúng không có điểm xuất phát cố định: Do được tạo ra bởi ánh sáng khúc xạ, vị trí tương đối của cầu vồng thay đổi tùy thuộc vào góc nhìn của mỗi người.
Strathern đặt khám phá của Dietrich – có vẻ nhỏ bé và không đáng kể so với những thành tựu khoa học hiện đại – vào một bối cảnh quan trọng hơn. Trong giai đoạn này, ông viết, toàn bộ ý tưởng về thực nghiệm thực tế chủ yếu bị giới hạn trong những căn phòng đầy khói mù mịt của các giả kim thuật gia. Kiến thức được xác nhận thông qua sự viện dẫn quyền uy, thường là từ Giáo hội, thay vì được xác minh bằng cách tìm hiểu, dẫn đến hệ thống mà Paracelsus sau này sẽ từ chối.
Bất chấp sự liên quan của mình, phần lớn các thành tựu nghệ thuật của thời kỳ Phục Hưng Bắc Âu vẫn bị lu mờ bởi tượng David và bức Mona Lisa. Nhà văn người Pháp François Rabelais đã kết hợp sự thanh tao của văn học Hy Lạp với những điều dung tục mà ông chứng kiến trong các quán rượu miền quê. Bộ truyện Gargantua và Pantagruel của ông, kể về hai gã khổng lồ thô tục, bao gồm tất cả những hành vi bê tha của cuộc sống đời thường vốn bị thiếu vắng trong phần lớn văn học chuẩn mực thời Trung Cổ, như Strathern nhận xét.
Gargantua và Pantagruel đọc giống như một dạng châm biếm sớm, một loại hình văn học chỉ trích và đặt câu hỏi về các thể chế và quy ước thay vì ca ngợi hay chấp nhận chúng. Trong lời nói đầu, Rabelais tự dành tặng tác phẩm cho những kẻ uống rượu nổi tiếng và những lưỡi dao bị bệnh đậu mùa. Trong một câu chuyện, hai nhân vật chính mở một tu viện đặc biệt, nơi các tu sĩ nam và nữ sống cùng nhau, ăn uống thoải mái và tuân theo một triết lý khuyến khích họ làm bất cứ điều gì mình muốn, bất cứ khi nào họ muốn.
Albrecht Dürer – Nghệ sĩ đi đầu
Có lẽ nghệ sĩ nổi tiếng nhất của thời kỳ Phục Hưng Bắc Âu là Albrecht Dürer, người giữa những chuyến đi đến Venice thường trở về quê nhà Nuremberg (một trung tâm thương mại nổi bật) để phát triển một phong cách hoàn toàn của riêng mình. Trong khi các họa sĩ Ý theo đuổi một khái niệm lý tưởng hóa về cái đẹp, Dürer coi nghệ thuật chủ yếu như một phương tiện để thể hiện bản thân. Tác phẩm lớn nhất của ông mang tính cá nhân sâu sắc – một mảnh đất với các loài thực vật hoặc chân dung của người mẹ già nua, mệt mỏi với thế giới của ông. Ông cũng là một nhà khắc họa xuất sắc.
Dürer đã giúp định hướng nghệ thuật miền Bắc theo một con đường khác với các đối tác phía Nam. Trong khi Phục Hưng Nam Âu, Strathern viết, vẫn không chịu ảnh hưởng từ Dürer, chuyển dần khỏi chủ nghĩa hiện thực gần như siêu việt của ông để bước vào sự méo mó của phong cách mannerism và sự trang trí cầu kỳ của baroque, thì Dürer đã báo trước sự gia tăng phổ biến của nghệ thuật in ấn, một loại hình ở phương Bắc được nâng lên ngang tầm với hội họa.