Thích Nhất Hạnh | Đường xưa mây trắng | Chương 07
Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường Xưa Mây Trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh.
· 16 phút đọc.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà sư, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội và hòa bình nổi tiếng trên thế giới. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân. Ông cũng là người đưa ra khái niệm chánh niệm, một phương pháp tu tập và sống đời giúp con người tĩnh tâm, hạnh phúc và hòa hợp với bản thân, với mọi người và với thiên nhiên.
Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường Xưa Mây Trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường Xưa Mây Trắng với rất nhiều hạnh phúc. Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc.
Năm Siddhatta lên mười bốn thì hoàng hậu Gotami sinh em Nanda. Cả hoàng cung mở hội để ăn mừng. Siddhatta rất hãnh diện khi có một đứa em. Mỗi ngày sau buổi học, Siddhatta thường chạy về thăm em, Siddhatta đã lớn rồi nên được phép thỉnh thoảng ẵm em đi chơi. Devadatta cũng hay đến chơi. Siddhatta cũng có những người em họ khác: Mahanama, Baddhiya và Kimbila. Mỗi khi các em tới, Siddhatta thường rủ họ ra chơi ở vườn hoa phía sau cung điện.
Bà Gotami cũng hay theo bọn trẻ ra vườn hoa. Bà ưa ngồi may áo cho Nanda trên một chiếc ghế gỗ đặt bên cạnh hồ sen và nhìn bọn trẻ nô đùa. Bên bà luôn luôn có một người thị nữ túc trực. Bà chỉ hay sai phái người thị nữ này khi cần đi lấy nước nôi và bánh trái cho bọn trẻ.
Càng lớn lên, Siddhatta càng học giỏi. Devadatta đã nhiều lần tỏ vẻ ganh tỵ với Siddhatta. Môn học nào Siddhatta cũng xuất sắc, kể cả võ nghệ. Devadatta khỏe hơn Siddhatta, nhưng về phương diện lanh lẹ thì lại không bằng Siddhatta.
Về toán học, cả lớp đều nhường Siddhatta. Giáo sư dạy toán là Arjuna có khi phải mất thật nhiều thì giờ với những câu hỏi của Siddhatta. Về âm nhạc, Siddhatta rất ưa thổi sáo. Siddhatta có một ống sáo thật quý do chính giáo sư âm nhạc của mình tặng cho. Có những buổi chiều hè, Siddhatta ra ngoài công viên một mình để thổi sáo. Tiếng sáo của Siddhatta có khi dìu dặt, có khi cao vút khiến người nghe có cảm tưởng như đã thoát lên được trên mấy từng mây. Nhiều hôm trong bóng đêm đang xuống, bà Gotami cũng ra ngoài vườn ngự ngồi nghe tiếng sáo của con. Bà cảm thấy khỏe khoắn khi ngồi thả lòng bay theo tiếng sáo của Siddhatta.
Cùng với tuổi, Siddhatta càng ngày càng lưu tâm đến đạo và triết học, Siddhatta được học các kinh Vệ Đà và được nghiền ngẫm về những đạo lý hàm chứa nơi các bài tụng trong các kinh ấy. Hai kinh Rigveda và Atharvaveda là hai kinh được học hỏi nhiều nhất. Từ thuở ấu thơ, Siddhatta đã được thấy các thầy Bà la môn hành lễ và đọc kinh.
Bây giờ Siddhatta đích thực đi vào trong nội dung của các kinh. Địa vị của Lời Nói trong đạo Bà la môn rất quan trọng.
Lời kinh đi theo với nghi lễ là một sức mạnh lớn có thể ảnh hưởng tới và làm thay đổi được tình trạng của thế giới và của con người. Vị trí của tính tượng và sự vận chuyển của bốn mùa có liên hệ mật thiết tới sự cúng tế và tới lời kinh cầu đảo. Các thầy Bà la môn là những người duy nhất có thể hiểu thấu được những lẽ huyền bí trong Phạm Thư và trong trời đất, và có thể dùng lời kinh và nghi lễ để chỉnh lý lại được trật tự trong tự nhiên giới và nhân sự giới.
Siddhatta được học rằng vũ trụ là một cái Ta lớn gọi là Purusa, có khi gọi là Phạm Thiên, và các giai cấp của con người trong xã hội đều được phát xuất từ những phần khác nhau của thân thể vũ trụ ấy. Mỗi con người đều mang theo một cái ta cùng phát xuất từ cái Ta siêu việt ấy và cùng một tính chất với cái Ta siêu việt ấy. Cái Ta này là bản chất thường tại trong mỗi con người.
Siddhatta lại còn được học thật kỹ về các Phạm Thư (Brahmana) và các Áo Nghĩa Thư. Các giáo sư bao giờ cũng muốn giảng giải các thánh thư theo truyền thống, nhưng Siddhatta và các bạn luôn luôn muốn đặt những câu hỏi buộc họ phải nhắc tới những tư tưởng đương thời được xem như không trung thành mấy với truyền thống.
Trong những ngày nghỉ học, Siddhatta thường rủ các bạn đi thăm các vị sa môn và các vị Bà la môn nổi danh ở kinh đô để học hỏi. Nhờ xúc tiếp nhiều như thế nên Siddhatta sớm tin ra rằng hiện đang có những cuộc vận động tư tưởng chống lại uy quyền thống trị của truyền thống Bà la môn. Cuộc vận động này không những có mặt trong giai cấp Sát đế lợi đang muốn vươn lên để nắm được cả quyền uy tinh thần lâu nay đang nằm trong tay của giai cấp Bà la môn, mà cũng có mặt ngay trong giới những người Bà la môn nữa.
Ngày xưa, từ khi được ăn cơm trên cỏ lần đầu với bọn trẻ dân dã, Siddhatta thường xin phép được đi chơi, và nhân dịp đi thăm các thôn xóm ngoài thành. Trong những chuyến đi như thế, Siddhatta thường có ý ăn mặc giản dị. Tiếp xúc với dân dã, Siddhatta học được rất nhiều cái mà trong trường không bao giờ Siddhatta được học. Đã đành dân chúng thờ phụng ba vị Thần của đạo Bà la môn là Brahma, Visnu, và Siva, nhưng dân chúng cũng bị các thầy Bà la môn lợi dụng và bóc lột quá mức. Trong tất cả các dịp quan, hôn, tang, tế, người dân đều phải chu cấp thực phẩm tiền bạc và sức lao động của mình cho ông thầy cúng, dù nghèo khó đến mấy cũng thế.
Một hôm, đi ngang qua một túp lều, Siddhatta nghe tiếng khóc kể thảm thiết. Chàng rủ Devadatta ghé vào thăm, và được biết rằng người chủ gia đình vừa mới qua đời. Đây là một gia đình nghèo khổ. Mấy mẹ con trông thật lam lũ, áo quần tả tơi. Nhà cửa xiêu vẹo, đổ nát. Hỏi ra thì người chủ gia đình chỉ vì muốn mời ông thầy Bà la môn trong làng tới cúng đất đai để có thể xây lại nhà bếp mà đã phải lại mấy ngày làm lao động tại nhà cho ông thầy. Ông bị bắt làm việc rất nặng nhọc, nào khuân đá, nào bửa củi, trong khi cơ thể ông đã suy nhược vì cảm cúm. Sau mấy ngày lao động, ông thầy Bà la môn bảo ông đi về trước và hẹn vài hôm sau sẽ đến cúng. Về tới nửa đường, người chủ gia đình nghèo khó đã bị trúng gió và chết bên lề đường. Người trong xóm phát giác ra và về báo cho mấy mẹ con hay.
Từ khi biết suy đoán, Siddhatta đã có khuynh hướng âm thầm không chấp nhận ba giáo điều căn bản của đạo Bà la môn: Kinh Vệ Đà là thiên khải cho riêng người Bà la môn, Phạm Thiên là đấng tối cao ngự trị, và tế lễ có công hiệu vạn năng. Siddhatta thấy có cảm tình với những vị sa môn và Bà la môn nào có tư tưởng cấp tiến dám thẳng thắn phủ nhận giá trị của ba thứ quyền ấy.
Tuy vậy, Siddhatta không bao giờ bỏ một buổi học hỏi và thảo luận nào về kinh Vệ Đà. Các môn học khác mà Siddhatta vẫn theo học là tự vựng học (nighandu), ngữ nguyên học (sokharappabhedana), sử truyện (itihasa) và văn pháp học (veyyakarana).
Siddhatta rất ưa tiếp xúc với các vị đạo sư và sa môn. Biết rằng phụ vương không ưa việc này, Siddhatta phải kiếm cớ đi du ngoạn để có dịp tìm gặp các nhà tu ấy. Họ là những người không thiết tha đến quyền lợi vật chất và địa vị trong xã hội như các ông thầy Bà la môn chuyên lo tế tự và gần gũi giới có quyền thế. Trái lại, họ muốn từ bỏ tất cả để đi tìm cầu sự giải thoát, cắt đứt những sợi dây ràng buộc họ vào nếp sống đầy não phiền của cuộc đời. Họ là những người đã từng học hỏi và thông hiểu qua Vệ Đà và Áo Nghĩa Thư. Siddhatta biết rằng tại nước láng giềng Kosala về phía Tây và nước láng giềng Magadha về phía Nam có rất nhiều những vị sa môn như thế, và Siddhatta ao ước một ngày kia có thể đi đến những miền ấy để tìm thầy học đạo.
Vua Suddhodana không phải là hoàn toàn không hay biết gì về tâm tư của Siddhatta. Vua rất lo lắng về việc Siddhatta có thể đi tu theo kiểu các vị sa môn. Có lần nói chuyện riêng với người em ruột là Dronodanaraja, cha của Devadatta và Ananda, vua than thở:
– Vương quốc Kosala hay dòm ngó lãnh thổ nước ta. Nếu sau này chúng ta không có người trẻ tài giỏi như Siddhatta và Devadatta thì lấy ai mà nắm lấy vận mệnh của nước? Ta rất sợ Siddhatta sau này sẽ đi tu, theo như lời tiên đoán của sa môn Asita Kaladevala. Devadatta lại hay đi theo với Siddhatta. Chú có biết là hai anh em chúng nó ưa đi gặp các thầy sa môn khổ hạnh hay không?
Hoàng thúc Dronodanaraja rất lấy làm ngạc nhiên khi nghe vua nói. Ngẫm nghĩ một hồi, ông ta thầm thì bên tai vua:
– Theo tôi, huynh vương nên lo cưới vợ cho Siddhatta. Có vợ con rồi thì tư tưởng đi tu sẽ không còn.
Vua Suddhodana im lặng gật đầu. Tối hôm ấy vua tâm sự với bà Gotami. Hoàng hậu hiểu ý vua, hứa sẽ lưu tâm tìm cách sắp đặt để Siddhatta chóng lập gia đình.
Những buổi hòa nhạc, những hội thể thao và những cuộc du ngoạn từ đó được tổ chức thường xuyên cho giới trẻ được gặp nhau. Siddhatta tham dự hết lòng vào những cuộc vui này, trong đó chàng gặp gỡ được nhiều bạn mới, nam cũng như nữ.
Năm sau, hoàng hậu Gotami sinh cho Siddhatta một cô em gái. Công chúa được đặt tên là Sundari Nanda.
Vua Suddhodana có một người em gái tên là Pamita. Chồng của bà là Thiện Giác vương Dandapani, thuộc bộ tộc Koliya. Họ có nhà cửa bên thủ phủ Ramagama của vương quốc Koliya nhưng họ cũng có trú sở ở Kapilavatthu. Sakya và Koliya là hai vương quốc nhỏ nằm sát bên nhau, ngăn cách bởi con sông Rohini. Hai bên bộ tộc Sakya và Koliya đã nhiều đời giao hảo với nhau rất thân mật. Kapilavatthu chỉ cách Ramagama có một ngày đường. Hai vợ chồng được bà Gotami ủy thác tổ chức một đại hội thể thao trên một bãi cỏ rộng mênh mông cạnh bờ hồ Kunau.
Vua Suddhodana đích thân chủ tọa đại hội này, bởi vì vua rất muốn khuyến khích những người trai trẻ ở vương quốc Sakya bồi đắp sức khỏe và trau dồi võ nghệ. Tất cả những người trẻ trong kinh đô đều được mời tham dự, nam cũng như nữ. Các thiếu nữ tuy không tham dự vào các cuộc tỷ thí nhưng cũng được khuyến khích có mặt để tán thưởng và cổ võ các chàng trai. Yasodhara, con gái của Dandapani và vương phi Pamita, đứng ra điều khiển việc tiếp tân. Yasodhara là một cô gái nhan sắc diễm lệ. Nàng tự nhiên và tươi mát như một đóa sen mùa hạ.
Siddhatta được làm quen với Yasodhara trong đại hội thể thao này. Chàng đã chiếm giải nhất trong các môn thi bắn cung, đánh kiếm, cỡi ngựa và cử tạ. Yasodhara được cử đem giải thưởng đến cho Siddhatta. Giải thưởng là một con voi trắng. Người giật giải quán quân cuộc thi sẽ cỡi voi đi một vòng trong thành Kapilavatthu trước sự hoan hô của mọi người. Yasodhara đem voi tới cho Siddhatta. Nàng đi chầm chậm bên voi. Voi đi từng bước có lễ nghi dưới sự điều khiển của một quản tượng. Tới trước Siddhatta, Yasodhara chắp tay cúi đầu chào thái tử và nói những lời khen ngợi:
– Xin điện hạ nhận thớt voi này, phần thưởng dành cho người chiếm giải quán quân của đại hội thể thao. Em xin thành tâm khen ngợi và chúc mừng điện hạ.
Giọng nàng thanh tao, dáng điệu nàng thật tự nhiên. Cách phục sức của nàng thật trang nhã. Nụ cười của nàng chúm chím tươi như một bông sen hàm tiếu. Siddhatta nghiêng mình đáp lễ. Chàng nhìn Yasodhara, đáp:
– Xin cảm ơn công nương.
Lúc ấy Devadatta đang đứng ngay sau lưng Siddhatta. Devadatta không được vui, vì chàng chỉ được đứng hàng nhì trong cuộc thi tài. Thấy Yasodhara không nhìn tới mình, Devadatta bực tức. Chàng bước tới mấy bước nắm lấy vòi con bạch tượng, dùng tất cả sức mình, chàng đấm con bạch tượng một đấm như trời giáng vào chỗ yếu. Con bạch tượng đau quá, ngã quỵ xuống.
Siddhatta quay lại nhìn Devadatta:
– Em làm như thế không tốt.
Nói xong, chàng đưa tay sờ voi xoa bóp chỗ đau và an ủi nó. Con voi từ từ đứng dậy được và nghiêng đầu tôn kính chàng. Quần chúng vỗ tay và hoan hô vang dậy. Siddhatta leo lên mình voi và đám rước bắt đầu diễn hành.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 01 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 02 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 03 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 04 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 05 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 06 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 07 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 08 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 09 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 10 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 11 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 12 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 13 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 14 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 15 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 16 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 17 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 18 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 19 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 20 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 21 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 22 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 23 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 24 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 25 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 26 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 27 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 28 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 29 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 30 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 31 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 32 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 33 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 34 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 35 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 36 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 37 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 38 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 39 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 40 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 41 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 42 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 43 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 44 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 45 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 46 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 47 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 48 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 49 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 50 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 51 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 52 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 53 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 54 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 55 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 56 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 57 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 58 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 59 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 60 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 61 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 62 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 63 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 64 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 65 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 66 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 67 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 68 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 69 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 70 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 71 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 72 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 73 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 74 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 75 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 76 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 77 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 78 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 79 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 80 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 81 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 82 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 83 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, toàn tập tại đây.