Đường xưa mây trắng | Chương 58
Tôi viết Đường Xưa Mây Trắng ở quán Xóm Thượng, khi chưa có lò sưởi trung ương, chỉ một lò củi nhỏ giữa trời lạnh.
· 18 phút đọc · lượt xem.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà sư, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội và hòa bình nổi tiếng trên thế giới. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai, được coi là nguồn cảm hứng chính cho Phật giáo dấn thân. Ông cũng là người đưa ra khái niệm chánh niệm, một phương pháp tu tập và sống đời giúp con người tĩnh tâm, hạnh phúc và hòa hợp với bản thân, với mọi người và với thiên nhiên.
Tìm mua Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại đây, hoặc tại Tuyển tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Tôi viết Đường Xưa Mây Trắng ở quán Xóm Thượng, khi chưa có lò sưởi trung ương, chỉ một lò củi nhỏ giữa trời lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường Xưa Mây Trắng với rất nhiều hạnh phúc. Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc.
Một hôm nọ đi khất thực qua một xóm nghèo Bụt gặp một đám thiếu nhi đang chơi giữa đường. Các bé đang xúm nhau xây một thành phố bằng đất và cát. Chúng xây thành vua, kho lúa, nhà cửa và đào một con sông chảy qua thành phố. Bọn nhỏ đông có đến mười lăm đứa.
Bụt và đoàn khất sĩ dừng lại. Một em bé, chừng như là đầu đàn của bọn nhỏ, nói:
– Có Bụt và các vị khất sĩ đi ngang qua thành phố chúng ta. Chúng ta phải cúng dường người và các vị đệ tử của người mới được.
Bọn trẻ nhao nhao hỏi:
– Chúng ta lấy gì mà cúng dường Bụt? Người lớn mới có thể cúng dường chứ chúng ta là con nít mà cúng dường sao được?
Em bé kia trả lời:
– Tại sao chúng ta lại không có thể cúng dường? Này các bạn, trong kho lẫm nội thành có bao nhiêu là thóc lúa. Chúng ta hãy lấy thóc lúa trong kho ra mà cúng dường Bụt và tăng đoàn.
Bọn nhỏ reo hò vang dậy. Chúng moi bụi cát trong kho lúa của chúng ra và đặt bụi cát đó trên một chiếc lá bàng. Em bé đầu đàn nâng chiếc lá bàng có đựng bụi đất trên hai tay, quỳ xuống trước Bụt và dâng lên Bụt những đất bụi ấy. Bọn trẻ đều bắt chước quỳ xuống, hướng về Bụt và tăng đoàn mà chắp tay. Em bé đầu đàn nói:
– Dân chúng trong thành phố chúng con kính dâng lên Bụt và tăng đoàn chút ít lúa gạo trong kho lẫm của chúng con. Xin Bụt và tăng đoàn nhận cho.
Bụt mỉm cười. Người đưa tay xoa đầu em bé và nói:
– Cảm ơn các con đã cúng dường lúa gạo cho Bụt và cho các thầy khất sĩ. Các con dễ thương lắm.
Rồi người xoay lại nói với thầy Ananda:
– Ananda, thầy hãy nhận lấy bụi đất trong chiếc lá bàng này rồi đem về hòa với nước và trét lên vách đất của tịnh thất ta.
Thầy Ananda lĩnh mệnh, thu nhận vật cúng dường của các bé. Bọn trẻ mời Bụt ngồi trên một tảng dá dưới một cội cây đa, rồi tất cả kéo tới quây quần xung quanh Bụt. Ananda và các vị khất sĩ cũng xúm lại gần.
Bụt kể cho bọn trẻ nghe chuyện tiền thân Visvantara. Kiếpxưa, thái tử Visvantara là một người giàu lòng thương, luôn luôn bố thí tất cả những gì mình có cho những người nghèo khổ túng thiếu, không tiếc bất cứ một vật gì. Thái tử có một người vợ tên là Madri rất hiền thục và đảm đang. Nàng biết niềm vui của chàng là cứu giúp kẻ thiếu thốn và vì vậy nàng không bao giờ tỏ vẻ nuối tiếc một thứ gì mà chồng đem cho. Hai người sinh được hai đứa con, một đứa trai tên là Jalin và một đứa gái tên là Krishnajina. Vào những năm đói kém hoàng tử được phép vua cha cho lấy lương thực và vải vóc trong kho để phát tặng cho những người đói rét. Các kho lẫm vì thế cạn dần. Một vài vị quan trong triều thấy thế tìm cách chận thái tử lại. Một hôm họ tâu vua là thái tử làm sạt nghiệp quốc gia và nhân dịp thái tử lỡ cho mất của triều đình một con voi quý, họ đề nghị đày thái tử tới một nơi hẻo lánh trên núi Jayatura để thái tử học sống cuộc đời nghèo khổ và đạm bạc. Bị áp lực của các quan, vua cha nghe lời. Vợ chồng và hai đứa con vì vậy phải lên đường đi đày biệt xứ.
Giữa đường có người nghèo ghé tới xin bố thí. Thái tử cởi chiếc áo quý đang mặc mà cho. Khi có những người nghèo khác tới xin, vợ thái tử cởi chiếc áo đẹp bên ngoài của nàng, và khi có những người nghèo khác tới nữa, Jalin và Krishnajina lại cởi áo và những đồ trang sức để tặng. Đi mới được hai phần ba đường mà thái tử và gia đình đã cho hết tất cả những gì có giá có thể bán được để mua gạo. Cuối cùng, họ phải cho luôn chiếc xe và hai con ngựa. Thái tử ẵm Jalin, Madri ẵm Krishnajina; họ đành lòng đi bộ tới xứ Jayatura để sống thời gian lưu đày của mình. Không còn của cải gì nhưng họ vẫn vui, vẫn hát, vì lòng họ thanh thản. Họ biết họ đã cho người khác những niềm vui.
Thái tử và vợ đi mãi đến khi chân họ rướm máu và chai đi thì mới tới nơi. Đó là một ngọn núi và những khu rừng rậm. Leo lên núi họ tìm thấy một túp lều bỏ không. Túp lều mà chắc ngày xưa đã có một vị đạo sĩ cư trú để tu hành. Hai vợ chồng sửa sang quét dọn túp lều, bứt tranh bứt lá lót giường cho bốn người, và nghĩ đến việc đi tìm thực phẩm. Hai người đi tìm các loại trái cây và các loại rau lá mọc hoang trong rừng có thể ăn được. Hai đứa bé cũng được dạy dỗ cách đi tìm trái cây, hái rau, giặt áo và phơi áo bên bờ suối, gieo hạt và làm vườn. Ngoài ra các bé còn được học chữ nữa. Họ dùng lá kè và viết chữ bằng một cái gai nhọn.
Họ sống đơn giản như thế trên núi được ba năm, và cuộc sống rất vui tươi, nhưng có một hôm nọ, trong khi Visvantara và Madri đang đi hái trái cây trong rừng thì ở nhà có người tới bắt cóc mất hai đứa trẻ. Khi về nhà không thấy hai con, hai vợ chồng hoảng hốt đi tìm. Họ đi khắp núi rừng và khi không thấy con, họ tìm về phố chợ. Hai tháng trôi qua nhưng họ vẫn không tìm được con. Họ trở về túp lều một lần nữa, hy vọng các con đi đâu lạc đã trở về. Về tới nhà, họ gặp sứ giả của vua cha. Vua cha triệu hai vợ chồng về. Sứ giả cho biết là Jalin và Krishnajina đã về tới trong hoàng cung và đang sống với ông nội.
Hai người mừng rỡ hỏi thăm. Sứ giả nói:
– Một hôm nọ có người đem bán hai đứa bé ngoài chợ kinh đô. Có một bà mệnh phụ đi chợ nhận ra hai đứa này là con của thái tử Visvantara. Bà liền về báo cho chồng biết. Vị quan này tức tốc ra chợ. Ông bảo người kia rằng nếu đem hai đứa trẻ vào cung bán thì sẽ được giá rất cao, và ông tiến dẫn người bán vào cung.
Thấy hai đứa nhỏ, dù áo quần tả tơi và mặt mày lem luốc, vua cha cũng giật mình nhận ra cháu mình. Vua bàng hoàng. Lòng nhớ thương con cháu sống dậy mãnh liệt nơi vua. Vua truyền:
– Nhà ngươi tìm được hai đứa bé này ở đâu thế? Bán mỗi đứa bao nhiêu?
Người kia chưa kịp tâu bày gì thì vị đại thần đã lên tiếng:
– Tâu hoàng thượng, đứa bé gái bán giá một ngàn lượng vàngvà một ngàn con bò, còn đứa bé trai bán giá một trăm lượng vàng và một trăm con bò.
Mọi người, kể cả hai đứa trẻ, đều ngạc nhiên. Vua hỏi:
– Tại sao con gái lại bán đắt hơn con trai?
Vị đại thần nói:
– Vì hoàng thượng quý con gái hơn con trai. Các công chúa không bao giờ bị hoàng thượng trừng phạt và la rầy, cả đến những cung nhân trong cung cấm cũng được đối đãi thật tử tế. Hoàng thượng chỉ có một đứa con trai duy nhất mà hoàng thượng lại đày lên núi xa ở với cọp beo, phải đi hái trái rừng để ăn và để nuôi con. Như vậy con gái không đắt hơn con trai là gì?
Vua rơi nước mắt:
– Thôi khanh đừng nói nữa, trẫm đã hiểu rõ rồi.
Vua hỏi người kia gặp hai đứa trẻ ở đâu. Người kia trả lời là đã mua lại hai đứa bé từ một miền núi xa xăm. Vua ban tiền bạc cho người ấy và ra lệnh cho người này cộng tác với thám tử của vua truy nã người đã bắt cóc trẻ em đem đi bán.
Rồi vua gọi hai cháu lên và ôm vào lòng. Vua hỏi thăm về cuộc sống trên núi. Sau đó, vua lập tức ban chiếu chỉ triệu vợ chồng thái tử về.
Từ đó về sau, vua rất cưng chiều thái tử và còn làm hết sức mình để giúp thái tử có thêm lúa gạo và vải vóc để chia tặng cho những người nghèo khổ.
Bọn trẻ em nghe Bụt kể chuyện một cách say mê. Bụt nói:
– Thái tử Visvantara tìm thấy niềm vui khi chia xẻ những gì mình có với những kẻ khác. Này các con, hồi nãy các con chỉ cho ta một ít bụi đất trong kho lẫm của các con mà ta cũng đã rất vui rồi. Các con nên biết: mỗi ngày ta có thể đem lại niềm vui cho kẻ khác bằng cách tặng cho kẻ ấy một món quà. Món quà ấy không cần phải mua. Khi các con hái một hông hoa bên bờ ruộng đem về tặng cho cha mẹ là các con đã cho cha mẹ các con một niềm vui rồi. Nói một câu hiếu thuận hoặc dễ thương cũng là một món quà quý giá. Ôm lấy cha mẹ mà nói rằng mình rất thương quý cha mẹ đã làm lụng khó nhọc để nuôi mình, đó cũng là một tặng phẩm rất quý. Một cái nhìn, một sự săn sóc nhỏ nhặt cũng đưa tới những niềm vui. Đối với cô bác và bạn bè, các con cũng có thể làm cho họ vui bằng những tặng phẩm như thế. Bây giờ ta với các thầy phải từ giã các con để tiếp tục đi khất thực, nhưng ta sẽ nhớ mãi những bụi đất mà các con đã tặng cho ta trong ngày hôm nay.
Bọn trẻ em rất sung sướng được gặp Bụt ngày hôm ấy. Chúng bàn nhau sẽ rủ các bạn tới tu viện Jetavana để thỉnh thoảng được nghe Bụt và các thầy kể chuyện.
Mùa nắng năm sau, Bụt về Rajagaha. Thăm hỏi và dạy dỗđại chúng ở đây xong, người lên núi Linh Thứu. Y sĩ Jivaka được tin Bụt về Linh Thứu liền lên núi thăm người. Rồi Jivaka thỉnh Bụt về vườn xoài của ông dăm bữa. Bụt nhận lời. Thầy Ananda cũng đi theo Bụt.
Y sĩ có một vườn xoài rất mát mẻ và xum xuê. Xoài ở đây đã lên tới năm thứ tám. Jivaka đã dựng một tịnh thất nhỏ để Bụt ở. Hàng ngày ông đem thức ăn chay do ông tự tay nấu để cúng dường Bụt. Ông xin Bụt nghỉ ngơi ít hôm đừng đi khất thực để có dịp bồi bổ lại sức khỏe. Ông lại đem thuốc bổ đến để cúng dường Bụt. Thuốc bổ này gồm toàn rễ cây, lá cây, và trái cây. Một hôm ngồi với Bụt trong vườn xoài, Jivaka hỏi:
– Lạy Bụt, có người đồn đãi rằng các vị khất sĩ được phép Bụt cho ăn mặn. Họ còn nói: Sa môn Gotama cho phép giết thú vật, để làm thức ăn cúng dường ông ta và các vị khất sĩ học trò của ông. Có người than thở: Vì sa môn Gotama mà dân chúng phải sát hại sinh vật để làm thức ăn cho ông và cho đệ tử ông. Bạch Thế Tôn, con thấy những lời đồn đãi này không đúng, nhưng con muốn nghe Thế Tôn trực tiếp nói về điều này.
Bụt nói:
– Này Jivaka, những ai nói rằng thầy cho phép giết sinh vật để làm thực phẩm cho thầy và cho các vị khất sĩ, những người ấy đã không nói đúng sự thật. Jivaka, thầy đã từng nói rõ nhiều lần: Nếu một vị khất sĩ thấy người ta giết thú vật để làm thực phẩm cúng dường mình, vị khất sĩ ấy phải từ chối không được ăn. Nếu không thấy mà chỉ nghe nói rằng người ta đã vì mình mà giết thú vật thì vị khất sĩ cũng phải từ chối không được tiếp nhận thực phẩm, và hơn thế nữa, dù không thấy không nghe nhưng một khi đã nghi rằng người ta có vì mình mà giết thú vật thì vị khất sĩ cũng phải từ chối không được ăn.
Jivaka, theo phép khất thực, người ta cho thức ăn gì thì phải nhận thức ăn ấy, nhưng trong trường hợp đã thấy đã nghe và đã nghi rằng người ta đã vì mình mà sát hại thú vật thì vị khất sĩ có quyền từ chối và phải từ chối. Như thế mới nuôi dưỡng và bảo vệ được lòng từ bi của mình. Jivaka, những thí chủ nào biết Bụt, biết Pháp và biết Tăng thì mỗi khi sửa soạn vật thực cúng dường họ đều dùng những thức ăn chay tịnh. Trong trường hợp không có sẵn các món chay họ mới chia xẻ cho các thầy khất sĩ món mặn họ sẵn có mà thôi. Những người lần đầu tiên cúng dường các vị khất sĩ cũng không biết rằng các thầy ưa thức ăn chay hơn thức ăn mặn cho nên cũng chỉ cúng dường và san sẻ những thức ăn họ sẵn có. Trong trường hợp này, các vị khất sĩ có thể thọ dụng thức ăn mặn, để khỏi phụ lòng thí chủ và cũng để thí chủ có dịp kết duyên từ từ với đạo giải thoát.
Jivaka, một mai kia, khi tất cả thiên hạ đều biết rằng các vị khất sĩ không ăn thịt thú vật bị giết vì họ thì thiên hạ sẽ không cúng dường thịt cho các vị khất sĩ nữa. Lúc ấy các vị khất sĩ sẽ ăn chay hoàn toàn.
Jivaka biện bạch:
– Con thấy ăn chay làm cho cơ thể nhẹ nhàng và ít bệnh hơn ăn mặn. Thế Tôn, từ mười năm nay, con đã ăn chay. Con nghĩ rằng ăn chay vừa được khỏe mạnh vừa nuôi dưỡng được lòng từ bi. Hôm nay con rất vui mừng được thầy chỉ dạy rõ ràng về việc ấy.
Jivaka cũng tỏ ý khen ngợi Bụt về pháp chế không ăn sau giờ Ngọ và không ăn những thức ăn cất giữ từ ngày hôm qua, trừ trong mùa lạnh. Ông thấy những điều này rất hợp với phép vệ sinh. Không ăn buổi chiều và buổi đêm thì vừa cảm thấy nhẹ nhàng vừa có thêm thì giờ tu tập. Thức ăn để lại ngày hôm sau có thể bị hư và làm độc hại cơ thể, nếu trời nóng quá.
Bụt khen ngợi Jivaka và ngỏ lời mời ông một hôm nào về tu viện nói cho các vị khất sĩ nghe về các phép vệ sinh của đời sống hàng ngày.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 01 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 02 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 03 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 04 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 05 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 06 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 07 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 08 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 09 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 10 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 11 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 12 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 13 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 14 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 15 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 16 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 17 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 18 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 19 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 20 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 21 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 22 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 23 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 24 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 25 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 26 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 27 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 28 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 29 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 30 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 31 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 32 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 33 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 34 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 35 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 36 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 37 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 38 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 39 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 40 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 41 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 42 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 43 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 44 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 45 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 46 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 47 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 48 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 49 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 50 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 51 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 52 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 53 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 54 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 55 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 56 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 57 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 58 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 59 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 60 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 61 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 62 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 63 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 64 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 65 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 66 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 67 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 68 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 69 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 70 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 71 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 72 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 73 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 74 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 75 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 76 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 77 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 78 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 79 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 80 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 81 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 82 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, chương 83 tại đây.
Đọc Đường xưa mây trắng, toàn tập tại đây.