Haruki Murakami | Biên niên ký chim vặn dây cót | Chương 23

Biên niên ký chim vặn dây cót với tiếng hót của con chim vặn dây cót chỉ vang lên vào những thời khắc quyết định, khi con người tỉnh thức những tiếng lòng thầm kín.

 · 67 phút đọc.

Biên niên ký chim vặn dây cót với tiếng hót của con chim vặn dây cót chỉ vang lên vào những thời khắc quyết định, khi con người tỉnh thức những tiếng lòng thầm kín.

Cái được tạo thành ở nơi khác Tôi ngồi thụp xuống trong bóng tối toàn bích. Mắt tôi chỉ nhìn thấy được mỗi cái Không. Và tôi thành một phần của cái Không này. Tôi nhắm mắt lại nghe tiếng tim mình đập, nghe tiếng máu tuần hoàn trong thân thể tôi, nghe nhịp co bóp như bễ lò rèn của phổi tôi, nghe những cuộn sóng trơn chuội của bộ ruột tôi đang khổ sở vì cái đói. Trong bóng tôi sâu thẳm, từng cử động, từng nhịp đập đều được khuếch đại đến mức phi tự nhiên. Đây là thân thể tôi, xác thịt tôi, nó quá sống sít, quá đỗi vật chất.

Chẳng bao lâu ý thức tôi bắt đầu chuội ra khỏi nhục thể tôi.

Tôi thấy mình là con chim vặn dây cót đang bay qua bầu trời mùa hè, đậu trên cành một cây to đâu đó mà vặn sợi dây cót của thế gian. Nếu quả thật không còn chim vặn dây cót nữa thì một ai đó phải đảm đương bổn phận của nó. Một ai đó sẽ phải thay nó vặn dây cót thế gian. Nếu không, dây cót sẽ chùn và cỗ máy tinh vi sẽ ngừng lại. Tuy nhiên, hình như kẻ duy nhất nhận ra rằng chim vặn dây cót đã ra đi là tôi.

Tôi cố sức bắt chước tiếng kêu của chim vặn dây cót ở phần sau cuống họng. Nhưng không được. Tôi chỉ thốt ra một âm thanh vô nghĩa, dị hợm, như tiếng hai vật vô nghĩa, dị hợm cọ vào nhau vậy. Cái tiếng kêu ấy, chỉ một mình Chim vặn dây cót mới phát ra được thôi. Chỉ Chim vặn dây cót mới có thể vặn dây cót của thế gian đúng cách mà thôi.

Dẫu vậy, dù là một con chim vặn dây cót vô thanh, không có khả năng vặn sợi dây cót của thế gian, tôi vẫn quyết định bay trên bầu trời mùa hè. Việc đó hoá ra chẳng lấy gì làm khó. Khi đã lên cao rồi, ta chỉ việc vỗ cánh cho đúng góc độ để điều chỉnh hướng và độ cao. Cơ thể tôi chỉ trong khoảnh khắc đã quen với kĩ thuật bay, thế là tôi bay lượn chẳng khó khăn gì, ung dung tự tại, đi đâu tuỳ thích. Tôi nhìn ngắm thế giới từ điểm nhìn thuận tiện của chim vặn dây cót. Bay chán thì tôi lại đậu lên một cành cây, nghé qua những tán lá xanh mà ngắm những mái nhà, những con đường. Tôi ngắm thiên hạ đi tới đi lui trên mặt đất, lo toan cuộc sống thường nhật. Nhưng, tiếc thay, tôi không thấy được thân thể của chính mình. Đó là vì tôi chưa bao giờ nhìn thấy con chim vặn dây cót nên không hề biết hình dáng nó ra sao.

Tôi là chim vặn dây cót một thời gian khá dài. Có thể là bao lâu? Tôi không biết. Nhưng là chim vặn dây cót thì cũng chẳng đưa tôi đến đâu. Bay lượn thì vui thật, nhưng tôi không thể cứ ham vui mãi. Có việc gì đó mà tôi phải làm cho xong nơi đáy giếng tối om này. Tôi thôi là chim vặn dây cót và trở lại là mình.

Kasahara May đến thăm lần thứ hai lúc hơn 3 giờ một chút. Ba giờ chiều.

Khi cô mở nửa nắp giếng ra, ánh sáng từ phía trên tuôn xuống – ánh sáng chói gắt một ngày hè. Để bảo vệ mắt, tôi nhắm mắt lại, cúi đầu xuống một lát. Chỉ cần nghĩ tới ánh sáng trên kia thôi là tôi đã trào nước mắt ra.

– Chim vặn dây cót ơi!

– Kasahara May nói.

– Anh còn sống đấy chứ? Chim vặn dây cót à! Nếu còn sống thì trả lời đi chứ.

– Còn sống, – tôi nói.

– Anh đói lắm nhỉ.

– Ừ, chắc là đói.

– Vẫn chắc là thôi à? Chẳng bao lâu nữa anh sẽ chết đói cho mà xem. Đói không thôi thì không dễ chết đâu, nếu như vẫn có nước uống.

– Cái đó có lẽ đúng, – tôi nói, sự không chắc chắn trong giọng nói tôi vang vọng trong giếng. Tiếng vang hẳn đã khuếch đại bất cứ âm sắc nào hàm chứa trong giọng của tôi.

– Em biết chắc là đúng, – Kasahara May nói.

– Sáng nay em có nghiên cứu chút đỉnh trong thư viện. Đọc toàn về chuyện đói khát thôi. Này Chim vặn dây cót có biết không, có người đã sống dưới lòng đất hai mươi mốt ngày cơ đấy! Vào thời Cách mạng Nga.

– Em không đùa chứ? – tôi nói.

– Chắc là ông ta khổ sở lắm.

– Ừ, ắt là khổ rồi.

– Ông ấy vẫn sống, nhưng rụng hết tóc, rụng hết cả răng. Chẳng còn cái nào.

Sống thì sống đấy, nhưng chắc hẳn là kinh khủng lắm.

– Ừ, hẳn là kinh rồi.

– Nhưng dù anh có rụng hết răng tóc đi nữa, chắc anh vẫn có thể sống bình thường được miễn là anh kiếm được bộ tóc giả và hảm răng giả khơ khớ.

– Ừ, với lại tóc và răng giả ngày nay đã tiến bộ nhiều so với thời Cách mạng Nga, nên nếu là bây giờ thì sẽ đỡ hơn.

– Chim vặn dây cót này…

– Kasahara May vừa nói vừa hắng giọng.

– Sao cơ?

– Nếu như con người ta sống đời đời, nếu họ chẳng bao giờ già đi cả… nếu người ta cứ sống hoài sống huỷ trên đời này mà không chết, lúc nào cũng khoẻ mạnh, thì theo anh liệu khi đó người ta có buồn nghĩ ngợi về điều này điều nọ tới nơi tới chốn như anh em mình đang làm không? Bởi vì chúng ta đây cứ nghĩ hầu như bất cứ chuyện gì, dù nhiều dù ít, về triết học này, tâm lý này, logic này. Tôn giáo. Văn chương. Em nghĩ nếu trên đời này không hề có cái chết thì những tư duy và ý nghĩ phức tạp kiểu ấy chẳng bao giờ xuất hiện trên thế giới này cả. Ý em là… Kasahara May đột nhiên khựng lại, im lặng một lát, trong khoảng thời gian đó cái câu ý em là… của cô treo trong bóng tối dưới giếng như một mảnh tư duy bị vạc ra. Có thể cô không muốn nói thêm nữa. Cũng có thể cô cần thêm thời gian để nghĩ sẽ nói tiếp cái gì. Tôi im lặng chờ cô nói tiếp, đầu vẫn cúi như từ đầu. Tôi chợt nảy ra ý nghĩ nếu Kasahara May muốn giết tôi ngay tức khắc, cô có thể làm vậy chẳng khó khăn gì. Cô chỉ cần thả một tảng đá lớn xuống giếng. Nếu cô thử vài lần thì thể nào cũng có một tảng rơi đúng vào đầu tôi.

– Ý em là… đây là em nghĩ thôi… sở dĩ người ta suy nghĩ một cách nghiêm túc về chuyện họ sống trên đời để làm gì là bởi họ biết một lúc nào đó mình sẽ chết. Đúng không? Việc gì phải nghĩ ngợi xem ý nghĩa cuộc sống là gì nếu người ra sẽ sống hoài hoài? Bận tâm làm gì cho mệt? Mà thậm chí nếu người ta có bận tâm đi nữa thì hẳn họ sẽ bảo: _Ôi dào, mình còn ối thì giờ.

Để sau hẵng nghĩ._ Nhưng ta đâu thể chờ để sau được. Ta phải nghĩ về chuyện đó ngay bây giờ. Có thể ngay chiều mai em sẽ bị xe tải chẹt. Còn Chim vặn dây cót, anh thì có thể chết đói. Ba ngày nữa có khi anh đã chết ngoẻo dưới đáy giếng rồi. Thế nên ta cần có cái chết mới tiến hoá được. Em nghĩ vậy đó. Chết là một cái gì đó thật to lớn, sáng chói, và nó càng to lớn, càng sáng chói thì người ta lại càng nghĩ tợn về chuyện này chuyện khác.

Kasahara May dừng lời.

– Này Chim vặn dây cót…

– Gì cơ?

– Dưới kia trong bóng tối, có bao giờ anh nghĩ đến cái chết của chính mình chưa? Về chuyện anh sẽ chết như thế nào dưới đó? Tôi nghĩ một chút về câu hỏi của cô.

– Không. Chuyện đó thì anh chưa nghĩ tới.

– Sao lại không nghĩ?

– Kasahara May hỏi, giọng có vẻ ghê tởm, như thể cô đang nói với một con vật dị dạng.

– Sao anh lại chưa nghĩ đến chuyện đó được? Anh đang thật sự đối mặt với cái chết đấy. Em không đùa đâu. Em nói rồi, anh sống hay chết là tuỳ ý em mà.

– Em có thể thả một hòn đá xuống, – tôi nói.

– Đá à? Anh nói chuyện đá điếc gì thế?

– Em có thể tìm một tảng đá to rồi thả xuống đầu anh.

– À, ừ, em làm vậy cũng được.

– Nhưng hình như cô không thích ý tưởng đó lắm.

– Nhưng Chim vặn dây cót này, chắc anh đói vàng mắt ra rồi. Sẽ càng ngày càng tệ hơn đấy. Rồi anh sẽ còn hết nước nữa. Thành thử làm sao anh không nghĩ đến cái chết được? Anh không thấy thế là lạ à?

– Ừ, thế cũng lạ, – tôi nói.

– Nhưng anh toàn nghĩ chuyện khác thôi. Khi nào thật sự đói thì có thể anh sẽ nghĩ đến cái chết. Phải ba tuần nữa anh mới chết phải không?

– Ấy là nếu anh có nước uống, – Kasahara May nói.

– Như tay người Nga kia ấy. Ông ta là địa chủ cỡ bự hay gì gì đó. Vệ binh cách mạng ném ông ấy xuống một hố mỏ cũ, nhưng có nước rỉ qua vách, ông ấy liếm nước ấy mà sống được. Ông ấy phải ở trong bóng tối như mực, như anh vậy. Nhưng anh đâu có nhiều nước lắm phải không?

– Ừ, – tôi nói thành thật.

– Còn một ít nước.

– Thế thì anh phải cẩn thận, – Kasahara May nói.

– Mỗi lần nhấp một tí thôi.

Rồi để thì giờ mà nghĩ đi. Về cái chết. Về chuyện anh sẽ chết ra sao. Anh còn nhiều thời gian mà.

– Sao em cứ nhất quyết bắt anh nghĩ về cấi chết thể nhỉ? Có lợi lộc gì cho em sao?

– Chả lợi lộc gì cho em hết.

– Kasahara May bật ra.

– Sao anh có thể nghĩ rằng nếu anh nghĩ đến cái chết của chính anh thì có lợi lộc gì cho em? Mạng sống là của anh cơ mà. Chẳng liên quan gì đến em hết. Em chỉ… quan tâm thôi.

– Vì tò mò?

– Ừ. Tò mò. Về chuyện con người ta chết ra sao. Khi chết thì người ta thấy thế nào. Tò mò thôi.

Kasahara May im lặng. Khi cuộc đối thoại ngưng lại, một im lặng sâu thẳm tràn ngập trong không gian quanh tôi như thể nãy giờ chỉ đợi có thế. Tôi muốn ngẩng mặt ngước lên. Để xem từ dưới này liệu có thể nhìn thấy Kasahara May không. Nhưng ánh sáng mãnh liệt quá. Tôi sợ nó thiêu cháy mắt mình mất.

– Có chuyện này anh muốn nói với em, – tôi nói.

– Được. Anh nói đi.

– Vợ anh có nhân tình. – tôi nói.

– Ít nhất là anh tin vậy. Anh chẳng nhận thấy gì hết, nhưng có đến mấy tháng trời, dù đang sống với anh, cô ấy vẫn ngủ với thằng cha ấy. Ban đầu anh không tin được, nhưng càng nghĩ anh càng tin. Giờ nghĩ lại, anh thấy có rất nhiều manh mối từ những chuyện nhỏ nhặt. Tỉ như cô ấy làm khuya lắc khuya lơ mới về, hay cô ấy rụt lại mỗi khi anh chạm vào người. Nhưng anh đã không hiểu ra những dấu hiệu ấy, anh tin cô ấy. Anh không bao giờ nghĩ cô ấy lại tằng tịu với ai. Ý nghĩ đó chẳng bao giờ nảy ra trong đầu anh cả.

– Chà.

– Kasahara May nói.

– Thế rồi một hôm cô ấy bỏ nhà đi, không bao giờ trở lại nữa. Sáng hôm đó anh và cô ấy cùng ăn điểm tâm với nhau. Cô ấy đi làm, ăn mặc vẫn như bình thường. Cô ấy chỉ mang theo túi xách tay, dọc đường thì ghé lấy áo cánh và váy ở chỗ hiệu giặt. Thế đấy. Không một lời tạm biệt. Không để lại một chữ. Không gì hết. Kumiko đã ra đi. Bỏ lại tất cả mọi thứ của cô ấy – quần áo, đồ đạc. Và có lẽ cô ấy sẽ không bao giờ về với anh nữa. Ít nhất là không phải theo ý muốn của cô ấy. Vậy đó.

– Theo anh thì hiện giờ Kumiko có đang ở với gã kia không?

– Anh không biết. – tôi vừa nói vừa lắc đầu. Khi đầu tôi chuyển động chầm châm như vậy, có cảm giác như không khí xung quanh là một thứ nước nặng mình không thể nhìn thấy được.

– Chắc là họ đang ở bên nhau.

– Thành ra bây giờ anh mới suy sụp, và chính vì vậy anh mới chui xuống giếng.

– Dĩ nhiên là khi biết được sự tình anh đã suy sụp. Nhưng không phải vì vậy mà anh xuống đây. Anh không muốn trốn tránh thực tại. Như anh đã nói, anh cần một chỗ nào đó chỉ có mình anh thôi, để anh có thể tập trung suy nghĩ. Quan hệ của anh với Kumiko đã hỏng đi từ bao giờ, như thế nào? Chuyện đó anh không hiểu được. Anh không có ý nói là trước đó mọi chuyện đều hoàn hảo. Một người đàn ông, một người đàn bà, hai tính cách hoàn toàn khác nhau, tình cờ gặp nhau đâu đó và bắt đầu sống với nhau.

Chẳng có cặp vợ chồng nào trên đời này mà không có những vấn đề riêng.

Song anh cứ nghĩ vợ chồng anh nói chung là ổn, dù có những rắc rối nho nhỏ nhưng theo thời gian đều tự nó êm xuôi cả. Nhưng anh đã lầm. Hẳn là anh đã bỏ sót một cái gì đó lớn lao, đã phạm một sai lầm nào đó ở cấp độ cơ bản. Chính vì vậy anh mới xuống đây, để suy nghĩ.

Kasahara May không nói gì. Tôi nuốt nước bọt.

– Anh không biết nói thế này liệu em có hiểu không. Hồi mới cưới, cách đây sáu năm, vợ chồng anh muốn cùng nhau tạo nên một thế giới hoàn toàn mới, giống như xây một căn nhà mới trên lô đất trống vậy. Bọn anh hình dung rất rõ mình muốn gì. Bọn anh không cần nhà cao cửa rộng hay gì gì cả, chỉ cần một nơi che nắng che mưa, cho hai đứa ở bên nhau. Bọn anh chả cần gì hơn. Mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy. Tất cả đều có vẻ đơn giản đối với bọn anh. Em đã bao giờ có cảm giác đó chưa – cảm giác mình muốn đến một nơi hoàn toàn khác, trở thành một người hoàn toàn khác?

– Hẳn rồi, – Kasahara May nói.

– Lúc nào em cũng muốn vậy hết.

– Ờ, hồi mới cưới bọn anh đã muốn làm như vậy. Anh đã muốn thoát khỏi chính mình, khỏi cái tôi đã tồn tại từ trước khi đó. Kumiko cũng vậy. Trong thế giới mới đó bọn anh cố tìm một cái tôi mới phù hợp hơn với cái bản lai diện mục sâu xa của mình. Bọn anh tin mình có thể sống theo một lối mới tương hợp hơn với cái tôi đích thực của mình.

Kasahara May hình như đang đổi trọng tâm cơ thể trong dòng ánh sáng. Tôi cảm thấy được chuyển động của cô. Dường như cô đang đợi tôi nói tiếp.

Nhưng tôi không còn gì nói nữa. Chẳng nghĩ ra được gì trong đầu. Tôi thấy mệt bởi âm thanh giọng nói của chính mình trong chiếc ống bê tông của cái giếng.

– Những gì anh vừa nói em có hiểu không? – tôi hỏi.

– Hiểu chứ.

– Em nghĩ thế nào?

– Này, anh biết đấy, em còn nhỏ mà. Em không biết gì về chuyện hôn nhân hết. Em không biết vợ anh đã nghĩ gì khi bắt đầu lăng nhăng hay lúc bỏ nhà đi. Nhưng nghe những gì anh vừa kể, em cho rằng ngay từ đầu anh đã nghĩ sai rồi. Anh hiểu ý em chứ hở Chim vặn dây cót? Cái anh vừa nói ấy mà… Những chuyện kiểu như, ờ, được, mình sẽ làm ra cả một thế giới mới hay ờ, mình sẽ tạo ra một cái hoàn toàn mới… đại loại thế, không ai làm được đâu. Em thì nghĩ vậy đó. Anh cứ ngỡ mình đã tạo ra một thế giới mới, một cái tôi mới, nhưng cái tôi cũ của anh nó vẫn luôn ở đó, ngay bên dưới cái bề ngoài kia, chỉ cần có chuyện gì xảy ra là nó lại ngóc đầu dậy mà nói Xin chào. Hình như anh không hiểu chuyện ấy. Anh được tạo ra không phải ở chốn này. Và ngay cả cái ý định cần phải tái tạo bản thân mình ấy, nó cũng được tạo ra không phải ở chốn này. Chuyện đó thì đến em cũng biết, Chim vặn dây cót ạ. Anh là người lớn mà, phải không? Làm sao anh không hiểu được chứ? Đấy là cả một vấn đề lớn đấy, nếu anh đã hỏi em. Và chính vì vậy mà anh mới bị trừng phạt, trừng phạt bởi mọi thứ: bởi cái thế giới mà anh muốn vứt bỏ, bởi cái tôi mà anh muốn vứt bỏ ấy. Anh hiểu em nói gì chứ? Tôi im lặng, nhìn chăm chăm vào bóng tối trùm kín đôi chân mình. Tôi không biết nói gì.

– Thôi được rồi, Chim vặn dây cót, – cô nhẹ nhàng nói.

– Anh cứ nghĩ đi.

Nghĩ. Nghĩ.

Nắp giếng lại đậy vào chỗ cũ, miệng giếng lại bị phong kín.

Tôi lấy bi đông nước ra khỏi ba lô, khẽ lắc lắc. Tiếng nước óc ách yếu ớt vọng lại trong bóng tối. Có lẽ còn chừng một phần tư. Tôi tựa đầu vào vách giếng, nhắm mắt. Có lẽ Kasahara May nói đúng. Con người này, cái tôi này, cái ngã này, được tạo ra ở một nơi khác. Mọi cái đều từ một nơi khác đến, mọi cái đều cũng nơi đó mà trở về. Tôi chẳng qua chỉ là đường thông cho cái kẻ gọi là tôi đi qua.

Đến như em cũng còn biết chuyện đó, Chim vặn dây cót ạ. Làm sao anh không hiểu cơ chứ? 11 Đói quá hoá đau

Thư dài của Kumiko

Chim tiên tri Tôi thiếp đi mấy lần, sực tỉnh cũng ngần ấy lần. Đó là những giấc ngủ ngắn, chập chờn bất an, như khi ngồi trên máy bay. Hễ sắp ngủ sâu là lại giật mình thức dậy, rồi hễ sắp tỉnh hẳn là lại lơ mơ ngủ, cứ thế lặp đi lặp lại không ngừng. Không có sự thay đổi ánh sáng, thời gian cứ tròng trành như toa tàu có bộ trục lỏng lẻo, xộc xệch. Tư thế co ro, thiếu tự nhiên khiến thân thể tôi không thư giãn được. Mỗi khi thức dậy, tôi lại nhìn đồng hồ để xem giờ. Thời gian trôi nặng nề, bất cân bằng.

Chẳng biết làm gì, chốc chốc tôi lại cầm đèn pin rọi vơ vẩn chỗ này chỗ nọ, khi xuống đất, khi lên vách giếng, khi lên nắp giếng. Bao giờ cũng vẫn nền đất ấy, vách giếng ấy, nắp giếng ấy. Những cái bóng từ ánh đèn hắt ra cứ xê dịch, giãn ra rút vào, phình ra co lại. Chán trò ấy, tôi lại dành thời gian sờ soạng mặt mình, kiểm tra từng đường nét, từng nếp nhăn, khảo sát từng li từng tí một, đặng phát hiện như mới hình thù của nó. Trước đây tôi chưa bao giờ thật sự quan tâm đến hình dạng đôi tai mình. Nếu có ai bảo tôi vẽ đôi tai mình, dù chỉ phác đôi nét thôi, hẳn tôi đã bó tay. Nhưng lúc này tôi có thể tái tạo từng chỗ hõm, từng đường cong một cách chi tiết, chính xác.

Tôi lấy làm lạ khi nhận thấy tai trái với tai phải lại khác nhau đến thế. Tôi hoàn toàn không biết vì sao lại có sự khác nhau như vậy, hay liệu sự bất cân đối này có hệ quả gì không (hẳn là nó có hệ quả nào đó).

Kim đồng hồ chỉ 7: 28. Từ khi xuống đây tôi đã xem đồng hồ dễ đến hai nghìn lần. Hiện giờ là 7 giờ 28 phút tối, điều ấy thì chắc; trong một trận bóng chày, đây là lúc cuối hiệp ba hay là cao điểm của hiệp bốn. Hồi nhỏ, tôi hay ngồi ở hàng ghế tít trên cùng ngoài sân bóng, ngắm cảnh ngày hè cứ dùng dằng mãi không chịu dứt. Mặt trời đã lặn qua chân trời phía Tây, nhưng ráng chiều vẫn thật huy hoàng, tuyệt đẹp. Đèn sân vận động hắt những cái bóng dài trên sân như để nhắc khéo điều gì. Đầu tiên một ngọn, rồi một ngọn nữa bật sáng, cực kỳ thận trọng, ngay sau khi trận đấu bắt đầu.

Tuy nhiên trời vẫn đủ sáng để đọc báo. Ký ức về ánh chói của ngày dài vẫn còn nấn ná nơi cửa, không cho đêm hè được bước vào.

Tuy nhiên, một cách kiên trì, bền bỉ, ánh sáng nhân tạo cứ lặng lẽ mà chiến thắng ánh sáng mặt trời, tuôn ra cả một dòng lũ những màu sắc hội hè. Màu xanh rực rỡ của sân cỏ, màu đất đen nhánh, những đường vôi trắng vừa vẽ trên mặt đất, ánh véc ni lấp lánh trên gậy các đấu thủ đang đợi lượt mình vào đánh, khói thuốc lá bay lơ lửng trong những luồng ánh sáng (vào những ngày đứng gió, chúng như những linh hồn lang thang tìm người để nhập vào), tất cả đều nổi bật lên, rõ nét lạ lùng. Những người bán bia trẻ tuổi chìa tay ra trong ánh sáng, xòe những tấm biên lai kẹp giữa mấy ngón tay. Đám đông chốc chốc lại nhổm dậy khỏi ghế dõi theo một đường bóng bay cao, giọng của họ vống lên theo vòng cung của bóng hoặc tan biến thành một tiếng thở dài. Những đàn chim nhỏ trên đường về tổ thi thoảng lại bay ngang qua, hướng về phía biển. Đó là sân vận động lúc 7 giờ rưỡi tối.

Tôi nghĩ về tất cả những trận bóng chày đã xem từ trước đến nay. Đội Saint Louis Cardinal từng đến Nhật một lần để đấu giao hữu, hồi ấy tôi còn bé lắm. Tôi đã đến sân vận động xem trận đó cùng với cha tôi. Trước khi khai trận, các đấu thủ đội Cardinals đứng dàn hàng dọc chu vi sân, tay xách túi đựng đầy những quả bóng tennis có chữ ký của họ, ra sức ném từng quả lên khán đài càng xa càng tốt. Thiên hạ nháo nhào tranh nhau bắt, còn tôi vẫn ngồi yên tại chỗ, không nhúc nhích, thế rồi chưa kịp nhận ra chuyện gì thì đã thấy một quả bóng rơi đúng vào lòng mình. Điều đó xảy ra như thể có phép màu: kỳ lạ và bất ngờ.

Tôi lại nhìn đồng hồ. 7 giờ 36 phút. Tám phút đã qua kể từ lần xem trước.

Chỉ có tám phút. Tôi tháo đồng hồ ra đưa lên tai. Nó vẫn kêu tích tắc bình thường. Tôi nhún vai trong bóng tối. Có sự lạ nào đó đang xảy ra với cảm nhận của tôi về thời gian. Tôi quyết định tạm thời không xem đồng hồ nữa.

Có thể tôi không còn gì khác để làm, nhưng cứ xem đồng hồ liên tục như vậy thì có gì đó không lành mạnh. Tuy nhiên, phải khó khăn lắm tôi mới kìm được không xem. Làm việc đó cũng khổ sở như khi bỏ thuốc lá vậy. Từ thời điểm quyết định không nghĩ đến thời gian nữa, tâm trí tôi không thể nghĩ về bất cứ gì khác. Nó là một thứ mâu thuẫn, một cơn loạn tinh thần.

Càng cố quên thời gian đi, tôi lại càng buộc phải nghĩ đến thời gian. Ngoài ý thức của tôi, mắt tôi cứ chực tìm cái đồng hồ nơi cổ tay trái. Mỗi khi điều đó xảy ra, tôi lại ngoảnh mặt đi, nhắm mắt lại, tự đấu tranh để không nhìn.

Rốt cuộc tôi phải tháo đồng hồ nhét vào trong ba lô. Ấy vậy mà sau đó tâm trí tôi vẫn cứ mò mẫm tìm chiếc đồng hồ trong ba lô, nơi nó vẫn đang tích tắc đếm thời gian.

Thời gian cứ vậy mà trôi trong bóng tối, dù không có sự hành tiến của những cây kim đồng hồ – một thời gian bất phân, không chịu sự đo lường.

Khi đã mất những điểm phân giới, thời gian không còn là một dòng liên tục mà trở thành một thứ chất lỏng bất định hình, lúc co lúc giãn tùy ý muốn.

Trong thứ thời gian này tôi thiếp đi rồi dậy, lại thiếp đi rồi lại thức, từ từ quen với sự sống không có đồng hồ. Tôi đã luyện cho thân thể mình nhận thức được rằng tôi không cần thời gian nữa. Nhưng chẳng mấy chốc tôi cảm thấy bất an ghê gớm. Đúng là tôi đã được giải phóng khỏi cái thói quen thần kinh là cứ năm phút lại xem đồng hồ, nhưng khi cái khung quy chiếu thời gian đã hoàn toàn biến mất, tôi bắt đầu cảm thấy như mình đã bị ném xuống đại dương giữa đêm khuya từ trên boong một con tàu đang chạy. Chẳng ai nghe ra tiếng thét của tôi, con tàu vẫn tiến về phía trước, càng lúc càng xa cho tới khi hầu như biến khỏi tầm mắt.

Thôi không cố nữa, tôi lại lấy đồng hồ ra khỏi ba lô, đeo vào cổ tay. Kim đồng hồ chỉ 6: 15. Chắc là 6 giờ 15 sáng. Lần cuối tôi xem đồng hồ là 7 giờ 36 phút. Bảy giờ 36 phút tối. Vậy có thể kết luận rằng từ lúc đó đến giờ đã mười ba tiếng đồng hồ trôi qua. Khó có khả năng là những hai mươi ba tiếng đồng hồ. Nhưng tôi không biết chắc được. Có gì khác nhau về bản chất giữa mười một tiếng với hai mươi ba tiếng cơ chứ? Dù mười một hay hai mươi ba tiếng, cái đói của tôi đã trở nên dữ dội hơn nhiều. Cảm giác đó khác hẳn với những gì tôi từng tưởng tượng về một cái đói dữ dội. Người ta thường cho rằng đói giống như là cảm giác thiếu cái gì đó. Trên thực tế, nó gần với cái đau thuần túy nhục thể, một cái đau hoàn toàn vật lý, trực tiếp, như thể bị đâm hay bị bóp cổ. Và cái đau ấy, nó không đều. Nó không nhất quán. Có lúc nó dâng lên trong tôi như ngọn triều tới ngưỡng cực đại khiến tôi gần ngất xỉu, rồi nó lại từ từ hạ xuống.

Để thôi không chú ý đến cái đau dữ dội của những cơn đói, tôi cố gắng tập trung vào một cái gì khác. Nhưng tôi không thể nghĩ một chuyện gì cho nghiêm túc nữa. Những mẩu ý nghĩ rời rạc dạt vào tâm trí tôi rồi lại biến mất nhanh như khi chúng đến. Hễ tôi cố nắm bắt một mẩu nào là nó lại chuội khỏi tay tôi như một con vật trơn nhẫy, vô hình.

Tôi đứng dậy duỗi người, hít một hơi sâu. Người tôi đau khắp mọi chỗ.

Từng bắp thịt, từng khớp sụn rên siết kêu đau vì phải ở trong tư thế thiếu tự nhiên quá lâu. Tôi chầm chậm duỗi người lên phía trên rồi gập đầu gối xuống mấy lần, nhưng chỉ được mươi lần là đã thấy chóng mặt. Lại ngồi trên nền giếng, tôi nhắm mắt lại. Tai tôi kêu ong ong, mồ hôi chảy ròng ròng xuống mặt. Tôi muốn nắm lấy một cái gì đó, nhưng trong tay chẳng có gì để nắm. Tôi muốn nôn, nhưng trong tôi chẳng có gì để nôn. Tôi thử thở sâu, mong có thể làm tâm trí mình tươi mới lại bằng cách đổi mới bầu không khí trong cơ thể, đổi mới dòng lưu chuyển máu, nhưng mây mù trong tâm trí tôi không chịu tản ra. Cơ thể mình yếu quá rồi, tôi nghĩ, và quả thực tôi đã muốn nói to câu đó lên – Cơ thể mình yếu quá rồi – nhưng miệng tôi không động đậy nổi thành câu. Giá như thấy được những vì sao thì tốt biết mấy, tôi nghĩ! Nhưng tôi không nhìn thấy sao. Kasahara May đã bịt kín miệng giếng.

Tôi cứ nghĩ rằng nội trong buổi sáng thể nào Kasahara May cũng sẽ tới chỗ giếng, nhưng cô không đến. Suốt buổi sáng tôi ngồi chờ cô, lưng tựa vào vách giếng. Cảm giác khó ở suốt buổi sáng không chịu rời bỏ tôi, tâm trí tôi không còn sức tập trung vào bất cứ cái gì dù trong khoảng thời gian ngắn ngủi đến mấy. Những cơn đói liên tiếp trào lên rồi lại trôi qua, bóng tối quanh tôi hết dày lên rồi lại mỏng đi. Cứ mỗi làn sóng mới là lại thêm một chút khả năng tập trung của tôi bị lôi đi mất, như đồ đạc bị trộm khoắng từng cái một ra khỏi căn nhà không người ở.

Buổi trưa đã qua, Kasahara May vẫn không xuất hiện. Tôi nhắm mắt cố ngủ, hy vọng sẽ mơ thấy Kano Creta, nhưng giấc ngủ của tôi quá nông nên không thể mơ được. Ngay sau khi tôi từ bỏ mọi cố gắng tập trung, đủ thứ ký ức rời rạc bắt đầu xâm nhập vào tôi. Chúng đến lặng lẽ, như nước từ từ lấp đầy một cái hang ngầm. Những nơi tôi từng đến, những người tôi từng gặp, những vết thương tôi từng bị, những cuộc trò chuyện, những vật tôi đã mua, những gì tôi đã mất; tôi nhớ lại tất cả, vô cùng sinh động và chi tiết đến kinh ngạc. Tôi nhớ lại những căn nhà và căn hộ mình từng sống. Tôi nhớ lại những cánh cửa sổ, những cái tủ, bàn ghế, những ngọn đèn. Tôi nhớ lại những thầy cô, những giáo sư mình từng học, từ cấp tiểu học đến tận đại học. Những ký ức ấy ít hoặc hầu như không liên quan gì với nhau. Chúng là những ký ức vụn vặt, vô nghĩa, hiện lên chẳng theo thứ tự thời gian nào hết.

Chốc chốc, dòng hồi tưởng của tôi lại bị gián đoạn vì một cơn đau đói mới.

Nhưng mỗi ký ức đều sinh động đến kỳ lạ, khiến tôi rung động một cách vật chất như thể dưới sức mạnh của một cơn gió xoáy.

Tôi ngồi quan sát tâm trí mình theo đuổi những ký ức đó, cho đến khi hồi tưởng lại một sự cố từng xảy ra ở cơ quan khoảng ba, bốn năm trước. Đó chỉ là một sự kiện ngu ngốc, tầm phào, nhưng càng để thì giờ nhớ lại những chi tiết vô nghĩa của nó thì tôi lại càng bực tức, cho đến khi nỗi bực tức trở thành cơn giận điên người. Cơn giận xâm chiếm tôi dữ dội đến nỗi át đi mọi thứ khác – cơn mệt mỏi, cái đói, nỗi sợ – , khiến toàn thân tôi run lên, hơi thở tôi hổn hển. Tôi nghe tim mình đập thình thình, cảm thấy cơn giận đang bơm đầy adrenalin vào máu trong người tôi. Đó là một cuộc cãi vã phát sinh từ một sự hiểu lầm nhỏ nhặt. Một gã trong cơ quan buông mấy lời xúc phạm tôi, tôi cũng trả miếng, nhưng rồi cả hai đều nhận ra mình đã đấu khẩu vì chuyện không đâu, nên liền xin lỗi nhau, xí xóa mọi chuyện và không để bụng làm gì. Chuyện như vậy vẫn hay xảy ra: người ta bận, người ta mệt, thảnh thử mới thốt ra lời nhận xét bất cẩn nào đó. Chuyện ấy tôi đã quên từ lâu. Thế nhưng, trong bóng tối như mực dưới đáy giếng, hoàn toàn xa cách thực tại, ký ức đó lại trở về, sống động đến cháy bỏng. Tôi cảm thấy sức nóng của nó trên da tôi, nghe thấy nó đốt xèo xèo thịt tôi. Cớ sao trước một lời chỉ trích quá quắt như vậy phản ứng của mình lại yếu xìu thế kia chứ? Giờ thì tôi nghĩ ra đủ những lời mà lẽ ra tôi có thể nói với gã kia.

Tôi gọt giũa những lời đó, mài sắc chúng, và chúng càng sắc bén, tôi lại càng tức giận.

Thế rồi, hết sức đột ngột, con quỷ ám kia đi mất, và toàn bộ câu chuyện kia chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cớ sao tôi phải ôn lại những ký ức dở hơi như thế này? Có ích gì? Tay kia hẳn từ lâu đã quên béng cuộc cãi vã đó. Bản thân tôi cho đến thời điểm này cũng đã quên. Tôi hít một hơi sâu, chùng vai xuống, cơ thể tôi lại chìm vào bóng tối. Tôi thử theo đuổi một ký ức khác, nhưng khi cơn tam bành đã qua, tôi chẳng còn ký ức nào nữa. Đầu tôi lúc này rỗng không như dạ dày tôi.

Thế rồi, từ lúc nào không biết, tôi bắt đầu tự nói với mình, lẩm bẩm thành lời những mẩu ý nghĩ rời rạc mà tôi không hề biết là mình có. Tôi không dừng được. Tôi nghe miệng mình thốt ra lời, nhưng chẳng hiểu tí gì những điều mình đang nói. Miệng tôi tự chuyển động, tuôn ra từng chuỗi lời xuyên qua bóng tối, những lời mà tôi không tài nào nắm được ý nghĩa. Chúng tuôn ra từ bóng tối này để rồi bị nuốt chửng vào bóng tối khác. Cơ thể tôi chẳng qua chỉ là một cái ống rỗng, một cầu dẫn để chuyển lời từ đó đến đây.

Chúng hẳn nhiên là những mẩu ý nghĩ, nhưng đó là ý nghĩ sinh ra ngoài ý thức của tôi.

Chuyện gì đang xảy ra vậy? Thần kinh tôi sắp đứt ư? Tôi nhìn đồng hồ.

Kim chỉ 3: 42. Có lẽ 3 giờ 42 chiều. Tôi thử hình dung ánh sáng lúc 3 giờ 42 phút vào một buổi chiều hè. Tôi hình dung chính mình trong làn ánh sáng đó. Tôi lắng tai cố tìm một âm thanh mà tai tôi có thể bắt được, nhưng không có gì hết: không tiếng ve sầu hay tiếng chim, không một giọng trẻ con. Có lẽ trong khi tôi ở dưới đáy giếng này, Chim vặn dây cót đã thôi vặn dây cót và thế giới đã ngừng chuyển động. Từng tí một, dây cót chùn dần, và đến một lúc nào đó, mọi chuyển động – dòng sông chảy, cành lá xao xác, chim bay qua bầu trời – thảy đã ngừng lại.

Kasahara May đang làm gì vậy? Sao cô ta không tới? Cô ta không tới đây đã lâu quá rồi. Đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ biết đâu có chuyện gì kinh khủng đã xảy ra với cô ta, tai nạn xe cộ chẳng hạn. Trong trường hợp đó sẽ chẳng còn ai trên đời này biết tôi đang ở dưới đây. Và tôi sẽ thật sự chết một cái chết từ từ nơi đáy giếng.

Tôi quyết định xét vấn đề theo một cách khác. Kasahara May không phải là người bất cẩn như vậy. Cô ta không dễ gì để cho ô tô chẹt. Hẳn là bây giờ cô đang ở trong phòng, thỉnh thoảng lại lấy ống nhòm quan sát khu vườn này mà hình dung cảnh tôi đang ở dưới giếng. Cô ta cố tình làm thế: cứ kéo dài thời gian ra, để tôi phải sợ, để tôi phải cảm thấy mình đã bị bỏ rơi. Đó là tôi đoán vậy. Và nếu quả thật cô cố tình kéo dài thời gian thì kế hoạch của cô đã quá thành công. Tôi đang thực sự sợ đây. Tôi đang thực sự thấy mình bị bỏ mặc đây. Mỗi khi trong đầu hiện ra ý nghĩ mình rất có thể sẽ chết rục xương trong bóng tối này, nỗi khiếp đảm lại khiến tôi nghẹn thở. Thời gian càng trôi qua, tôi lại càng yếu sức, cho đến khi những cơn đói trở nên đủ khốc liệt để giết chết tôi. Tuy nhiên, trước khi điều đó xảy ra, có khi tôi đã mất khả năng cử động thân mình theo ý muốn. Thậm chí nếu ai đó hạ thang dây xuống cho tôi, có khi tôi không còn leo lên nổi nữa. Toàn bộ răng tóc tôi hẳn sẽ rụng hết.

Rồi tôi lại đâm lo về chuyện không khí. Tôi ở dưới đáy cái ống bê tông sâu, hẹp này đã hai ngày rồi, vậy mà chưa hết, nắp đã bị bịt kín. Lưu thông không khí hoàn toàn chẳng có. Không khí quanh tôi bỗng nhiên có vẻ nặng trịch, đè ép. Tôi không biết đó là do trí tưởng tượng đánh lừa tôi hay quả thật không khí đã trở nên nặng hơn vì thiếu oxy. Để biết chắc, tôi hít vào sâu rồi thở ra mấy lần, nhưng càng thở càng khó chịu. Sợ hãi khiến toàn thân tôi vã mồ hôi. Hễ tôi bắt đầu nghĩ đến không khí là cái chết liền xâm chiếm tâm trí tôi như một cái gì có thật, không tránh khỏi. Nó dâng lên như một làn nước im lìm, đen kịt, thấm vào từng ngóc ngách của ý thức tôi. Cho đến giờ tôi chỉ nghĩ đến khả năng chết đói, mà để chết đói thì vẫn còn nhiều thời gian. Nhưng nếu hết oxy, mọi chuyện sẽ kết thúc nhanh hơn nhiều.

Chết vì ngạt thở thì thế nào nhỉ? Kéo dài trong bao lâu? Có phải đó là một quá trình chậm chạp, đau đớn, hay tôi sẽ dần dần mất ý thức và chết như là thiếp ngủ? Tôi hình dung Kasahara May đến chỗ giếng thì thấy tôi đã chết.

Cô sẽ lớn tiếng gọi tôi mấy lần, không nghe tiếng trả lời, cô sẽ thả vài hòn sỏi xuống giếng bởi cho rằng tôi đang ngủ. Nhưng tôi sẽ không thức dậy.

Khi đó cô sẽ nhận ra rằng tôi đã chết.

Tôi muốn hét gọi ai đó. Tôi muốn thét lên rằng mình đang bị nhốt ở đây.

Rằng tôi đói. Rằng không khí sắp không còn thở được nữa. Tôi thấy như mình đã trở lại là đứa bé bơ vơ không người giúp đỡ. Tôi đã trốn nhà đi trong một cơn bốc đồng và không tìm được lối về nhà. Tôi đã quên mất đường. Đó là một giấc mơ tôi đã mơ hàng bao nhiêu lần. Đó là cơn ác mộng suốt thời niên thiếu của tôi – lạc đường, mất lối về nhà. Tôi đã quên tất cả những cơn ác mộng đó từ nhiều năm nay. Nhưng giờ đây, dưới đáy giếng sâu này, chúng lại trồi lên, sống động đến đáng sợ. Thời gian quay ngược lại trong bóng tối, để rồi bị một loại thời gian khác nuốt chửng.

Tôi rút bi đông ra khỏi ba lô, mở nắp, rồi, hết sức cẩn thận, cố không đánh rơi một giọt nào, tôi cho một chút nước vào miệng. Tôi ngậm nước trong miệng một hồi lâu, nếm náp cái hơi ẩm, rồi mới nuốt càng chậm càng tốt.

Một âm thanh to phát ra từ cuống họng tôi khi nước trôi qua, như thể một vật gì cứng, nặng vừa rơi xuống đất, thế nhưng đó chỉ là âm thanh khi tôi nuốt vài giọt nước.

– Ông Okada ơi! Ai đó đang gọi tôi. Tôi nghe giọng nói trong giấc mơ.

– Ông Okada ơi! Ông Okada! Dậy đi! Nghe như giọng Kano Creta. Tôi cố mở mắt, nhưng chẳng có gì thay đổi.

Quanh tôi vẫn là bóng tối, tôi không thể nhìn thấy gì. Không có ranh giới rõ ràng giữa ngủ và thức. Tôi gắng nhổm dậy, nhưng mấy ngón tay tôi không còn đủ sức. Cơ thể tôi lạnh ngắt, rúm ró, ỉu xìu, như quả dưa chuột bị bỏ quên lâu ngày trong tủ lạnh. Tâm trí tôi mụ mị vì kiệt sức và yếu ớt. Tôi cóc cần, cô muốn gì cứ làm đi, tôi sẽ lại cương cứng trong tâm trí rồi xuất tinh trong thực tại. Làm đi, nếu cô đã muốn vậy. Trong ý thức mờ đục, tôi đợi hai bàn tay cô cởi thắt lưng tôi. Nhưng giọng của Kano Creta vang lên từ đâu đó ở trên đầu. Ông Okada ơi! Ông Okada!, cô gọi. Tôi ngẩng lên thì thấy nửa nắp giếng đang mở, bên trên là một bầu trời đẹp đẽ, đầy sao, một mảnh trời hình bán nguyệt. – tôi đây! Tôi nhổm người, cố đứng dậy. Ngẩng lên, tôi lại hét: Tôi đây!

– Ông Okada!

– Kano Creta ngoài đời thực nói.

– Ông ở dưới đó à?

– Vâng, tôi ở đây.

– Làm sao lại thế được?

– Chuyện dài lắm.

– Xin lỗi, tôi nghe ông không rõ lắm. Ông nói to hơn chút được không?

– Chuyện dài lắm!

– tôi hét.

– Để ra khỏi đây xong tôi sẽ kể cô nghe. Ngay lúc này tôi không nói thật to được.

– Đây là thang dây của ông à?

– Phải.

– Làm sao ở dưới đó mà ông đưa nó lên đây được? Ông ném lên à?

– Dĩ nhiên là không!

– Cớ sao tôi phải làm vậy chứ? Làm thế nào tôi có thể làm vậy chứ?

– Dĩ nhiên là không! Có ai đó đã kéo lên mà không bảo tôi.

– Nhưng nếu vậy thì ông không ra khỏi đây được.

– Dĩ nhiên là không, – tôi nói, cố giữ kiên nhẫn.

– Chuyện là vậy đó. Tôi không ra khỏi đây được. Cô có thể làm ơn thả cái thang xuống không? Bằng cách đó thì tôi sẽ ra được.

– Vâng, dĩ nhiên, tôi sẽ làm ngay.

– Đợi một chút! Trước khi thả xuống, cô làm ơn kiểm tra xem nó còn buộc chắc vào gốc cây không. Nhỡ ra… Nhưng cô không đáp. Hình như không còn ai ở đó nữa. Tôi cố hết sức căng mắt nhìn lên miệng giếng, nhưng không thấy ai. Tôi lấy đèn pin ra khỏi ba lô mà rọi lên trên, nhưng ánh đèn pin không bắt được dáng người nào. Nó chỉ rọi thấy chiếc thang dây treo ở nguyên chỗ cũ, như thể từ trước đến giờ nó vẫn luôn ở đó. Tôi thở một hơi dài. Khi thở ra, tôi cảm thấy như một cái khối cứng ở sâu trong cơ thể tôi chùng xuống, tan đi.

– Này! Kano Creta ơi!

– tôi hét, nhưng vẫn không có tiếng trả lời.

Kim đồng hồ của tôi chỉ 1: 07. Một giờ bảy phút lúc nửa đêm, dĩ nhiên.

Những ngôi sao nhấp nháy trên đầu tôi cho biết thế. Tôi quảy ba lô lên vai, hít một hơi dài rồi bắt đầu leo lên. Thang tròng trành, leo rất khó. Cứ mỗi lần vận sức, từng cơ bắp, từng khúc xương và khớp sụn tôi đều rên rỉ kêu đau. Tôi cẩn thận lên từng bước một, chẳng mấy chốc đã thấy không khí xung quanh ấm lên, sau đó là mùi cỏ không lẫn vào đâu được. Tiếng côn trùng giờ đã lọt đến tai tôi. Tôi đặt tay lên thành giếng, rồi với một nỗ lực cuối cùng ẩy người lên, gần như lăn tròn xuống mặt đất mềm. Vậy là tôi lại ở trên mặt đất. Tôi nằm ngửa một hồi, chẳng nghĩ ngợi gì. Tôi nhìn lên trời, hít không khí thật sâu vào phổi, hít mãi, hít mãi – bầu không khí dày, ấm áp của đêm hè, đầy mùi hương tươi mát của sự sống. Tôi ngửi thấy mùi đất, mùi cỏ. Chỉ mùi đó thôi là đủ để lòng bàn tay tôi cảm thấy cái mềm mại khi sờ lên mặt đất, sờ lên cỏ. Tôi muốn bốc cả đất, cả cỏ lên trong tay mà ăn ngấu nghiến.

Chẳng còn vì sao nào trên bầu trời nữa: không một cái nào. Những vì sao trên kia chỉ có thể nhìn thấy từ dưới đáy giếng thôi. Treo trên bầu trời chỉ có vầng trăng gần tròn, to lồ lộ.

Tôi nằm như thế trong bao lâu, tôi không biết. Mãi một lúc lâu, tôi chỉ lắng nghe tiếng đập của tim mình. Tôi cảm thấy mình có thể cứ sống như vậy mãi mãi mà chỉ làm mỗi việc ấy thôi – lắng nghe tim mình đập. Nhưng cuối cùng tôi cũng đứng dậy nhìn xung quanh. Không có một ai. Khu vườn trải rộng trong bóng đêm, con chim đá vẫn nhìn chăm chắm lên trời như mọi khi. Không có ánh đèn nào trong nhà Kasahara May. Chỉ có một ngọn đèn thủy ngân đang cháy trong sân, hắt ánh sáng nhợt nhạt, vô cảm ra con ngõ không người. Kano Creta biến đi đâu rồi? Dù thế nào đi nữa, việc đầu tiên cần làm là về nhà – về nhà, uống gì đó, ăn gì đó, tắm cho thật kỹ, thật lâu. Người tôi hẳn bốc mùi kinh lắm. Tôi phải tống khứ cái mùi đó đi trước khi làm bất cứ việc gì khác. Kế đó tôi phải làm đầy cái bao tử rỗng không. Những chuyện khác sau hẵng hay.

Tôi theo con đường quen thuộc để về nhà; nhưng với mắt tôi, con ngõ trông khang khác, là lạ. Có lẽ là bởi ánh trăng sống sít, những dấu hiệu của sự tù đọng và thối rữa nổi bật lên rõ rệt khác thường, tôi ngửi thấy cái gì đó như mùi thịt thối xác thú chết, mùi khắm lặm không thể nhầm lẫn của phân và nước tiểu. Trong nhiều nhà, người ta vẫn còn thức, vừa xem tivi vừa trò chuyện hay ăn uống. Từ một cửa sổ thoát ra mùi thức ăn ngậy mỡ, hành hạ không thương tiếc tâm trí và dạ dày tôi. Tôi đi qua một chiếc máy điều hòa đang kêu ro ro, nó xộc vào tôi một làn khí ấm. Tôi nghe tiếng vòi hoa sen và thấy hình người mờ mờ trên cửa sổ một buồng tắm.

Tôi cố sức trèo qua bức tường sau nhà rồi buông mình xuống sân. Từ đây, căn nhà có vẻ tối om om, dường như nó đang nín thở. Nó không có vẻ gì là ấm áp hay thân thiết. Vốn là căn nhà nơi cuộc sống của tôi vẫn trôi qua ngày này sang ngày khác, nhưng lúc này nó chỉ là một căn nhà hoang không dấu vết con người. Thế nhưng nếu tôi có một căn nhà để trở về thì nó đấy.

Tôi bước lên hàng hiên, đẩy cánh cửa bằng kính ra. Bị nhốt bên trong quá lâu nên không khí nặng nề, tù đọng. Nó có mùi như trộn giữa mùi hoa quả chín nẫu với mùi thuốc diệt trùng. Mẩu thư ngắn tôi để lại trên bàn bếp vẫn còn đó. Những bát đĩa tôi đã rửa vẫn xếp chồng y nguyên trên giá phơi. Tôi lấy một cái cốc, rót đầy rồi lại rót nữa, rót nữa, hứng nước thẳng từ vòi.

Trong tủ lạnh chẳng có gì đặc biệt: một mớ hổ lốn những thức ăn thừa, những thứ chỉ mới dùng một phần: trứng, dăm bông, xà lách khoai tây, cà tím, rau diếp, cà chua, đậu phụ, bơ, sữa. Tôi rót ít sữa lên một bát bánh bột ngô nướng rồi ăn. Lý ra tôi phải đói cào ruột mới đúng, nhưng sau khi thấy những thức ăn thật sự có trong tủ lạnh, tôi lại gần như không thấy đói. Có chăng tôi chỉ thấy buồn nôn. Tuy vậy, để làm dịu bớt cơn đau của cái dạ dày rỗng, tôi ăn thêm ít bánh quy. Nhưng rồi bánh quy cũng chẳng làm tôi muốn ăn gì thêm nữa.

Tôi xuống buồng tắm, cởi hết quần áo vứt vào máy giặt. Đứng dưới vòi hoa sen nóng, tôi kỳ cọ từng phân vuông trên cơ thể rồi gội đầu. Chiếc mũ gội đầu bằng nylon của Kumiko vẫn treo trong buồng tắm. Dầu gội đầu của nàng cũng ở đó, dầu dưỡng tóc, chiếc lược bằng nhựa nàng hay dùng khi gội đầu cũng ở đó. Bàn chải răng của nàng. Chỉ xỉa răng của nàng. Mọi thứ đều y như trước khi nàng ra đi. Sự thay đổi duy nhất do việc nàng vắng mặt là một sự kiện đơn giản: Kumiko không còn đó nữa.

Tôi đứng trước gương xem xét kỹ mặt mình. Đầy những sợi râu lún phún đen. Ngần ngừ một chút, tôi quyết định không cạo râu. Nếu cạo bây giờ có khi tôi làm xước mặt mất. Mai cạo cũng được. Tôi có phải gặp ai đâu. Tôi đánh răng, súc miệng mấy lần rồi ra khỏi buồng tắm. Đoạn tôi mở một lon bia, lấy một quả cà chua và một cây rau diếp trong tủ lạnh ra làm món salad. Ăn món salad xong, tôi bắt đầu thấy muốn ăn thêm, bèn lấy ra ít salad khoai tây, kẹp vào giữa hai lát bánh mì rồi ăn. Tôi chỉ nhìn đồng hồ mỗi một lần.

Tôi vào toa lét, đứng nhắm mắt mà tiểu một hồi lâu. Thật khó mà tin được mình lại tiểu lâu đến thế. Có cảm giác như tôi sẽ ngất xỉu giữa lúc đang đứng tiểu như vậy. Sau đó tôi lên phòng khách, nằm duỗi dài trên sofa, nhìn đăm đăm lên trần nhà. Cảm giác thật kỳ lạ: cơ thể tôi mệt nhoài, nhưng trí óc tỉnh như sáo. Tôi không buồn ngủ chút nào hết.

Tôi chợt nghĩ cần phải kiểm tra hòm thư. Có thể có người gửi thư cho tôi trong khi tôi đang ở dưới giếng. Tôi ra phòng ngoài xem thì thấy có một lá thư. Phong bì không đề tên người gửi, nhưng nét chữ viết tay ở mặt trước rõ ràng là của Kumiko. Những con chữ nhỏ tí, từng chữ một đều được viết – gần như là vẽ – một cách kỳ khu, nắn nót, như là họa tiết trang trí. Viết theo kiểu này mất khối thời gian, nhưng nàng chỉ biết mỗi cách đó thôi. Mắt tôi chuyển ngay lên dấu bưu điện. Con dấu lem nhem, gần như không đọc được, nhưng tôi vẫn nhìn ra được chữ taka, còn một chữ có thể là matsu.

Takamatsu ở tỉnh Kagawa sao? Theo chỗ tôi biết, Kumiko chẳng quen ai ở Takamatsu cả. Hai chúng tôi chưa hề tới đó, nàng cũng chưa bao giờ từng nói đến chuyện từng đi phà sang Shikoku hoặc băng qua cây cầu mới. Cái tên Takamatsu đơn giản là chưa bao giờ xuất hiện trong những lần trò chuyện giữa chúng tôi. Chắc không phải Takamatsu đâu.

Dù thế nào thì thế, tôi mang thư vào bếp, ngồi xuống bàn, lấy kéo rọc phong bì, cẩn thận sao cho không cắt phải thư ở bên trong. Để trấn tĩnh, tôi nốc cạn chỗ bia còn lại.

Chắc anh đã rất sốc và lo lắng khi em biến mất đột ngột như vậy mà không nói một lời – Kumiko viết như vậy bằng loại mực Mont Blanc màu xanh đen nàng vẫn dùng. Giấy là loại giấy viết thư mỏng bình thường, đâu cũng có bán.

Em đã định viết thư cho anh sớm hơn để giải thích mọi chuyện cho tới nơi tới chốn, nhưng trong khi em đang vắt óc nghĩ không biết làm sao có thể diễn tả được chính xác cảm xúc của em, làm sao có thể giải thích tình trạng hiện thời của em cho anh hiểu thì thời gian cứ vùn vụt trôi qua. Em rất áy náy với anh về chuyện đó.

Hẳn là mãi đến giờ anh vẫn ngờ em có dan díu với người khác. Em đã có quan hệ tình dục với người đó trong khoảng gần ba tháng. Em gặp ông ta vì quan hệ công việc; anh không biết ông ấy đâu. Mà ông ấy là ai cũng chẳng quan trọng lắm. Em sẽ không bao giờ gặp ông ta nữa. Ít nhất là với em, chuyện đó đã chấm dứt. Điều này có thể an ủi anh phần nào, mà cũng có thể không.

Em có yêu ông ta không? Câu hỏi ấy em không sao trả lời được. Mà bản thân câu hỏi dường như cũng không cần thiết. Em có yêu anh không? Điều đó thì em có thể trả lời không do dự: có. Quả thực em đã vô cùng hạnh phúc khi lấy anh. Đến giờ em vẫn thấy như vậy. Anh có thể hỏi: đã thế sao em còn phải có nhân tình nhân ngãi làm gì, lại còn bỏ nhà đi? Em cũng đã tự hỏi mình câu đó không biết bao nhiêu lần ngay khi chuyện đó đang diễn ra: Tại sao mình phải làm vậy chứ? Em không cách nào giải thích điều đó được. Em chưa bao giờ có ý muốn kiếm tình nhân hay tằng tịu với ai. Những ý nghĩ đó tuyệt chẳng hề nảy ra trong đầu em khi em gặp ông ta lần đầu. Em với ông ta gặp nhau mấy lần vì công việc. Mặc dù hai người nói chuyện với nhau khá hợp, song những lúc trò chuyện qua điện thoại chỉ thỉnh thoảng em với ông ta mới nói đôi ba chuyện khác ngoài công việc thôi. Ông ta lớn tuổi hơn em nhiều, có vợ con, cũng không đặc biệt hấp dẫn đối với em trong tư cách đàn ông. Vì vậy trong đầu em chẳng bao giờ nảy ra ý nghĩ một lúc nào đó mình sẽ dan díu với ông ta.

Nói thế không có nghĩa là em đã hoàn toàn loại bỏ được ý nghĩ ăn miếng trả miếng với anh. Em vẫn ấm ức mãi chuyện anh từng qua đêm với người đàn bà nào đó. Em tin anh khi anh nói anh chẳng làm gì cô ta cả, nhưng dù có thật anh chẳng làm gì cô ta thì em cũng không dễ quên được. Tâm trạng em là vậy đó. Nhưng dù vậy, em dan díu với người khác không phải là để trả miếng anh. Em nhớ có lần em nói vậy thật, nhưng ấy là em chỉ dọa thôi. Em ngủ với ông ta vì em muốn ngủ với ông ta. Vì em không thể chịu nổi nếu không ngủ với ông ta. Vì em không kìm nén nổi dục vọng xác thịt của mình.

Sau một thời gian không gặp nhau, em với ông ta mới có dịp cần gặp vì công việc. Làm việc xong, em với ông ta đi ăn tối, sau đó thì đi uống cái gì đó. Em vốn không biết uống rượu, dĩ nhiên rồi, thành thử để giữ lịch sự, em chỉ uống một cốc nước cam không pha một giọt rượu nào. Vì vậy rượu chẳng liên quan gì đến chuyện đã xảy ra. Bọn em chỉ ăn uống và trò chuyện theo cách bình thường nhất. Nhưng rồi, đến một lúc, em với ông ta chạm vào người nhau, khi đó em không thể nghĩ đến gì khác ngoài chuyện làm sao ngả vào vòng tay ông ta. Ngay khoảnh khắc hai bên động chạm nhau, em biết ông ta thèm muốn em, và hình như ông ta biết em cũng thèm muốn ông ta. Dường như có một dòng điện hoàn toàn phi lý, choáng ngợp vừa xẹt qua giữa em với ông ta. Em cảm thấy như bầu trời đã sụp xuống em. Má em nóng bừng, tim em đập thình thịch, em có cảm giác nằng nặng, tan chảy ở dưới sườn. Khó khăn lắm em mới ngồi thẳng được trên ghế quầy bar, cảm giác đó mạnh quá. Đầu tiên em không biết điều gì đang diễn ra bên trong mình, nhưng chẳng mấy chốc em nhận ra đó là dục vọng xác thịt. Em thèm muốn ông ta mãnh liệt đến mức gần như không thở được. Chẳng biết ai gợi ý đầu tiên, em và ông ta đi bộ sang một khách sạn gần đó rồi làm tình với nhau như điên dại.

Nói chuyện này ra một cách rành rọt như vậy chắc hẳn sẽ làm anh đau lòng, nhưng em tin rằng về lâu dài, tốt nhất là có một lời thú nhận trung thực, chi tiết. Đau lòng thì có thể đau lòng đấy, nhưng mong anh hãy cố chịu đựng mà đọc tiếp.

Những gì em đã làm với ông ta tuyệt chẳng có gì liên quan đến tình yêu.

Chỉ là em muốn được ông ta ôm ấp, muốn cảm thấy ông ta nhập vào trong em. Cả đời em chưa bao giờ thấy cần thân thể một người đàn ông đến nghẹt thở như vậy. Trước kia em vẫn đọc được trong sách về một dục vọng không sao chịu nổi, nhưng mãi đến ngày hôm đó em mới nhận ra mấy chữ ấy có ý nghĩa gì.

Tại sao cái nhu cầu ấy trỗi lên trong em đột ngột như vậy, tại sao không phải với anh mà với người khác, em không biết. Cái dục vọng trong em khi đó không thể nào kiềm chế được, mà em cũng không cố kiềm chế. Xin hãy hiểu cho em: lúc ấy trong đầu em không hề có ý nghĩ rằng em đang phản bội anh. Cuộc ái ân trên giường khách sạn với ông ta là một cái gì rất gần với cơn điên. Nói thật, cả đời em chưa bao giờ thấy thích thú như lần đó.

Không, không đơn giản chỉ là thích thú. Thể xác em lăn lộn trong bùn nóng hổi. Tâm trí em hút lấy khoái lạc, hút mãi cho đến độ nổ tung – và nó nổ tung. Thật là kỳ diệu. Đó là một trong những điều tuyệt vời nhất em từng biết đến trong đời.

Rồi thì, như anh đã biết, em giấu kín mãi chuyện đó. Anh chẳng bao giờ nhận ra em đang có nhân tình. Anh chẳng bao giờ nghi ngờ em, cho dù em bắt đầu về nhà muộn. Em biết anh tuyệt đối tin tưởng em. Anh nghĩ em không bao giờ có thể phản bội anh. Và dù phản bội lòng tin đó của anh, em hoàn toàn không có cảm giác tội lỗi. Em cứ từ phòng khách sạn gọi điện về bảo việc nhiều quá nên em phải làm muộn. Dối trá chất chồng dối trá, nhưng điều đó chẳng làm em động tâm. Dường như với em đó là điều tự nhiên nhất trên đời. Tự đáy lòng em cần cuộc sống bên anh. Căn nhà em chung sống với anh là thế giới của em. Em thuộc về nơi đó. Nhưng thân thể em lại cuồng nhiệt đòi ái ân với người đàn ông kia. Một nửa em ở đằng này, nửa khác ở đằng kia. Em biết sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra tan vỡ, nhưng lúc đó em cảm thấy cuộc sống kép kia có thể kéo dài mãi. Ở đây em sống bình an với anh, ở kia em làm tình cuồng loạn với ông ta.

Em mong anh hiểu ít nhất là một điều này. Rằng đây hoàn toàn không phải chuyện anh kém cỏi hơn ông ta trong chuyện ái ân hay thiếu hấp dẫn về tình dục, cũng không phải vì em đã chán làm tình với anh. Mà chỉ là, trong lúc đó, thân thể em cảm thấy một nỗi khao khát tình dục mãnh liệt, không thể kiềm chế nổi. Em không sao cưỡng lại được. Tại sao lại xảy ra như thế, em không biết. Trong suốt mấy tuần ngủ với ông ta, có đôi lần em cũng nghĩ đến việc ngủ với anh. Nếu chỉ ngủ với ông ta mà không ngủ với anh thì thật bất công cho anh. Nhưng trong vòng tay anh, em không còn cảm nhận được gì cả. Hẳn anh cũng nhận thấy thế. Suốt gần hai tháng, em cố nặn ra đủ cớ này cớ nọ để tránh quan hệ tình dục với anh.

Thế rồi một hôm, ông ta đòi em bỏ anh để theo ông ta. Ông ta bảo: chúng mình là một cặp rất đẹp đôi, chẳng có lý do gì để chúng ta không ở bên nhau. Ông ta nói ông ta sẽ bỏ gia đình. Em đề nghị ông ta cho em thời gian suy nghĩ. Nhưng đêm đó, trên chuyến xe về nhà sau khi chia tay với ông ta, em nhận ra mình không còn cảm thấy gì ở ông ta nữa. Em không hiểu nổi chính mình, nhưng ngay lúc ông ta bảo em theo ông ta thì cái gì đó đặc biệt mà em cảm thấy bên trong mình lập tức biến đâu mất, như có cơn gió mạnh nào ập tới thổi phăng nó đi. Nỗi thèm khát ông ta đã biến mất khỏi em không còn dấu vết.

Chính khi đó em bắt đầu thấy có tội với anh. Như em đã viết ở trên, khi còn thèm muốn mãnh liệt ông ta, em đã hoàn toàn không có cảm giác đó. Em chỉ thấy thật thoải mái vì anh không hề nhận thấy gì. Em đã nghĩ chuyện gì rồi cũng xong, miễn là anh không nhận ra. Mối quan hệ giữa em với ông ta thuộc về một thế giới hoàn toàn khác với quan hệ giữa em với anh. Tuy nhiên, khi nỗi thèm muốn ông ta đã biến mất, em không còn biết mình đang ở đâu nữa.

Em đã luôn luôn tự coi mình là kẻ trung thực. Đúng là em cũng có lỗi lầm.

Nhưng nếu là những chuyện quan trọng, em không bao giờ nói dối với ai hoặc lừa dối chính mình. Em đã không bao giờ giấu anh bất cứ chuyện gì.

Đó là một nguồn tự hào nho nhỏ của em. Nhưng rồi, suốt mấy tháng trời, em cứ nói dối anh như cuội mà chẳng mảy may dằn vặt.

Chính điều đó bắt đầu giày vò em. Nó làm em cảm thấy mình như một kẻ rỗng tuếch, vô nghĩa, không chút giá trị gì. Mà có lẽ đúng thế thật. Nhưng ngoài ra còn một điều khác vẫn cứ làm em băn khoăn: làm thế nào em lại đột ngột cảm thấy thèm khát nhục dục một cách dữ dội, bất thường như vậy với một người đàn ông mà em không yêu? Điều đó em không hiểu nổi. Giá như không có cái dục vọng đó thì giờ em vẫn đang sống hạnh phúc với anh rồi. Còn người kia thì vẫn là một người bạn tốt để thỉnh thoảng tán gẫu.

Nhưng cái cảm giác đó, cái thèm khát nhục dục không thể tin được, không thể cưỡng được đó, nó đã làm sụp đổ tất cả những gì chúng ta đã xây nên trong những năm qua. Nó đã cướp đi tất cả những gì của em: nó cướp anh đi, cướp căn nhà chúng ta chung sức làm nên, và công việc của em. Tại sao điều đó lại phải xảy ra cơ chứ? Sau khi em phá thai cách đây ba năm, em có bảo anh rằng có một điều em phải nói với anh. Anh có nhớ không? Có lẽ đúng ra đã em phải nói. Đúng ra em nên kể với anh tất cả những gì trong lòng em trước khi xảy ra cơ sự này.

Chuyện này hẳn đã không xảy ra nếu như em đã kể. Nhưng bây giờ khi mọi sự đã rồi – thậm chí cả bây giờ nữa – , em vẫn không tin mình có thể kể với anh những gì em đã cảm thấy hồi đó. Đó là bởi em thấy hình như một khi em đã nói điều đó thành lời, mọi sự sẽ còn tan nát hơn cả bây giờ nữa.

Chính vì vậy em mới đâm ra nghĩ, tốt nhất là em nên nuốt nó vào mình rồi chính mình biến mất đi.

Em rất tiếc phải nói với anh điều này, nhưng thực tế là em chưa bao giờ có khoái cảm tình dục thật sự với anh, dù trước hay sau khi chúng ta cưới nhau. Em rất sung sướng mỗi khi anh ôm em vào vòng tay anh, nhưng cảm giác của em lúc đó lại mơ hồ, xa xôi, gần như nó thuộc về một người nào khác. Đó hoàn toàn không phải lỗi tại anh. Việc em không có khả năng cảm xúc hoàn toàn là tại em, chỉ tại em thôi. Có một cái rào cản nào đó ở bên trong em, nó bóp nghẹt mọi cảm xúc tình dục của em. Nhưng khi chẳng biết vì lý do gì cái rào cản đó bị cuốn phăng đi khi làm tình với ông ta, em không còn biết mình nên làm gì.

Giữa anh và em luôn luôn có một cái gì đó rất gần gũi và tinh tế. Ngay từ đầu đã như vậy. Nhưng giờ đây nó đã mất đi vĩnh viễn. Cái sự ăn rơ tuyệt vời đó, cái điều huyền bí đó, đã bị hủy diệt. Bởi chính em đã hủy diệt nó.

Hay nói chính xác hơn, một cái gì đó đã buộc em hủy diệt nó. Em hối tiếc vô cùng vì đã xảy ra như vậy. Không ai trên đời này có thể may mắn như em khi được ở cùng anh. Em căm thù cái gì đã gây nên nông nỗi này. Anh không thể biết em căm thù nó đến nhường nào đâu. Em muốn biết chính xác nó là cái gì. Em phải biết chính xác nó là cái gì. Em phải tìm cho ra cội rễ của nó, phán xử và trừng phạt nó. Em không biết liệu mình có đủ sức làm vậy không. Nhưng có một điều chắc chắn: đây là vấn đề của riêng em. Nó không liên quan gì đến anh.

Em chỉ có một điều muốn xin anh. Đó là đừng bận tâm đến em nữa. Đừng cố công tìm em. Hãy quên em đi mà bắt đầu một cuộc đời mới. Về phần gia đình em, em sẽ làm việc cần làm: em sẽ viết thư cho họ giải thích rằng tất cả là lỗi của em, rằng anh hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm. Họ sẽ không làm khó dễ gì anh. Thủ tục ly dị chính thức sẽ bắt đầu sớm thôi, em nghĩ vậy. Thế là tốt nhất cho cả hai ta. Nên mong anh đừng phản đối. Cứ làm như vậy. Còn về quần áo và những đồ đạc khác em để lại, em rất tiếc, nhưng anh hãy tống khứ đi, hoặc hiến tặng đâu đó. Mọi cái đã là quá khứ rồi. Tất cả những gì em từng dùng khi còn sống với anh, nay em không có quyền dùng nữa.

Vĩnh biệt.

Tôi đọc thư một lần nữa từ đầu đến cuối rồi cho lại vào phong bì. Rồi tôi lấy thêm một lon bia ra khỏi tủ lạnh mà uống.

Nếu Kumiko đang định nộp đơn xin ly dị, thế nghĩa là ít nhất nàng không có ý định tự tử vào lúc này. Điều ấy làm tôi nhẹ nhõm phần nào. Nhưng rồi tôi sực nhớ, đã gần hai tháng qua tôi không có quan hệ tình dục với ai. Như Kumiko nói trong thư, nàng đã khước từ ngủ với tôi trong suốt thời gian đó.

Nàng nói nàng bị viêm bàng quang nhẹ, bác sĩ bảo nàng phải kiêng quan hệ tình dục một thời gian. Và dĩ nhiên tôi đã tin nàng. Tôi không có lý do nào để không tin.

Trong hai tháng đó tôi đã có quan hệ với phụ nữ trong những giấc mơ – hoặc trong một thế giới nào đó mà với vốn từ hạn hẹp của mình tôi chỉ có thể gọi là giấc mơ – với Kano Creta và với người đàn bà trên điện thoại.

Nhưng giờ nghĩ lại tôi mới thấy, đã hai tháng qua kể từ lần cuối tôi ngủ với một người đàn bà có thực trong thế giới thực. Nằm trên sofa, nhìn chăm chăm vào hai bàn tay của chính mình đặt trên ngực, tôi nghĩ đến lần cuối cùng nhìn thấy thân thể Kumiko. Tôi nghĩ đến đường cong mềm mại của lưng nàng khi tôi kéo khóa áo cho nàng, mùi nước hoa sau tai nàng. Tuy nhiên, nếu những gì nàng nói trong thư là sự thật không thể thay đổi được thì có lẽ tôi sẽ không bao giờ được ngủ với Kumiko nữa. Nàng đã viết như vậy một cách rõ ràng, dứt khoát thế kia: nó có thể là gì khác ngoài sự thật không thể thay đổi được? Càng nghĩ đến việc quan hệ của Kumiko có thể đã là chuyện trong quá khứ, tôi càng nhớ da diết hơi ấm dịu dàng của tấm thân ấy, tấm thân từng có lúc thuộc về tôi. Tôi luôn thấy khoái lạc những khi ngủ với nàng. Dĩ nhiên, tôi đã thấy khoái lạc như vậy từ trước khi chúng tôi lấy nhau, nhưng ngay cả khi vài năm đã qua, những run rẩy và rung động thuở đầu đã nhạt thì mỗi khi ngủ với nàng tôi vẫn thấy sung sướng. Tấm lưng thon mảnh của nàng, phía sau cổ nàng, đôi chân nàng, cặp vú nàng – tôi có thể nhớ lại từng bộ phận thân thể nàng một cách hoàn toàn sống động. Tôi nhớ lại tất cả những gì tôi đã làm cho nàng và nàng đã làm cho tôi những khi chúng tôi ân ái với nhau.

Nhưng nay Kumiko đã nhập thân xác nàng với thân xác của một kẻ tôi không hề biết, và nàng làm việc đó một cách cuồng nhiệt đến mức tôi khó hình dung nổi. Nàng đã khám phá ra một khoái lạc nàng chưa bao giờ được hưởng khi làm tình với tôi. Khi làm tình với hắn ta, hẳn nàng đã oằn mình quằn quại đến nỗi giường phải rung bần bật lên, nàng đã rền rĩ to đến mức ở phòng bên cũng nghe thấy. Hẳn nàng đã làm với hắn những gì nàng chẳng bao giờ làm với tôi. Tôi đến tủ lạnh, mở ra, lấy một lon bia uống. Đoạn tôi ăn ít salad khoai tây. Vì muốn nghe nhạc, tôi bật đài FM, chuyển sang kênh nhạc cổ điển, vặn âm lượng nhỏ. Hôm nay em mệt quá, – Kumiko hay nói. Em không cảm thấy có hứng. Em xin lỗi. Thật đấy. Và tôi trả lời: Được mà, không sao cả. Khi Serenade cho đàn dây của Tchaikovski đã chấm dứt, một bản đàn piano liền cất lên, hình như của Schumann. Nghe quen quen, nhưng tôi không nhớ được nhan đề. Khi bản nhạc dứt, một giọng nữ cho tôi biết đó là cảnh thứ bảy trong Những cánh rừng của Schumann, nhan đề là Chim tiên tri. Tôi hình dung Kumiko vặn vẹo đôi hông bên dưới gã đàn ông kia, nhấc chân lên, bấu mười đầu móng tay vào lưng hắn, rớt dãi xuống khắn trải giường. Người dẫn chương trình cho biết Schumann đã tạo ra một cảnh hoang đường, rằng trong cánh rừng nọ có một con chim huyền bí sinh sống, nó có khả năng tiên đoán tương lai.

Tôi từng biết gì về Kumiko? Im lìm, tôi bóp nát lon bia trong tay rồi ném vào sọt rác. Có thật là Kumiko mà tôi tưởng mình đã biết, Kumiko mà tôi đã đầu gối tay ấp, đã cùng giao hoan trong ngần ấy năm trời, cô Kumiko ấy chẳng qua chỉ là lớp bề ngoài cạn cợt của Kumiko đích thực, cũng như phần lớn của thế giới này thuộc về vương quốc của lũ sứa? Nếu vậy thì sáu năm chung sống của chúng tôi là gì chứ? Chúng là cái gì? Chúng có ý nghĩa gì?

Tôi đang đọc lại thư của Kumiko một lần nữa thì điện thoại reo. Tiếng reo làm tôi bật khỏi sofa. Ai có thể gọi điện vào lúc 2 giờ sáng? Kumiko? Không, nàng hẳn không bao giờ gọi tới đây nữa. Có lẽ là Kasahara May. Cô đã nhìn thấy tôi rời căn nhà hoang và quyết định gọi cho tôi. Hoặc có thể là Kano Creta. Cô muốn giải thích vì sao cô đã biến mất. Cũng có thể là người đàn bà trên điện thoại. Hẳn cô ta muốn truyền đạt với tôi thông điệp gì đó.

Kasahara May nói đúng: tôi có hơi nhiều phụ nữ quanh mình. Tôi lấy một chiếc khăn mặt nằm gần đó để lau mồ hôi trên mặt, rồi khi đã sẵn sàng tôi mới nhấc ống nghe. Alô, tôi nói. Alô, giọng vang lên từ đầu dây bên kia. Không phải giọng Kasahara May. Cũng không phải giọng Kano Creta hay giọng của người đàn bà bí ẩn. Đó là Kano Malta.

– Alô, – cô ta nói.

– Ông Okada phải không ạ? Tên tôi là Kano Malta. Không biết ông có còn nhớ tôi không?

– Dĩ nhiên. Tôi nhớ cô rất rõ, – tôi vừa nói vừa cố ghìm nhịp tim đập thình thịch. Làm sao tôi không nhớ cô ta được? – tôi phải xin lỗi đã gọi cho ông giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Tuy nhiên, đây là chuyện khẩn cấp. Tôi biết làm thế này là hết sức bất nhã và ông sẽ lấy làm tức giận lắm, nhưng tôi vẫn buộc lòng phải gọi. Tôi vô cùng xin lỗi.

Tôi trấn an cô ta rằng cô không cần phải áy náy gì, đằng nào thì tôi cũng đang thức và tôi không bực mình chút nào hết.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 01 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 02 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 03 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 04 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 05 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 06 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 07 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 08 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 09 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 10 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 11 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 12 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 13 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 14 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 15 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 16 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 17 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 18 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 19 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 20 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 21 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 22 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 23 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 24 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 25 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 26 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 27 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 28 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 29 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 30 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 31 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 32 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 33 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 34 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 35 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 36 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 37 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 38 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 39 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 40 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 41 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 42 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 43 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 44 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 45 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 46 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 47 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 48 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 49 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 50 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 51 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 52 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 53 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 54 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 55 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 56 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 57 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 58 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 59 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 60 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 61 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 62 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 63 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 64 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 65 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, chương 66 tại đây.

Đọc Biên niên ký chim vặn dây cót, toàn tập tại đây.

nhavantuonglai

Share:
Quay lại.

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.