Nhận thức sinh viên nghệ thuật về LGBT | Nghiên cứu và kết quả nghiên cứu
Nghiên cứu về nhận thức LGBT của sinh viên Đại học Nghệ thuật – Huế, tài trợ bởi Đại học Sư phạm – Huế.
· 30 phút đọc.
Nghiên cứu khoa học về LGBT với nhóm sinh viên trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế, tập trung vào nhận thức của sinh viên về LGBT. Nghiên cứu được tài trợ bởi trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế vào năm 2015. Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng nhận thức của sinh viên Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế về LGBT, nhóm nghiên cứu đề xuất các biện pháp thiết thực nhằm nâng cao nhận thức về giới tính cho giới trẻ hiện nay, hướng đến xóa bỏ sự kỳ thị đối với nhóm cộng đồng LGBT.
Nghiên cứu và kết quả nghiên cứu khoa học về LGBT
Vài nét về địa bàn nghiên cứu khoa học về LGBT
Trường Đại học Nghệ thuật Huế là một trong 3 trung tâm đào tạo nghệ thuật lớn của cả nước. Đến nay Trường có 7 ngành đào tạo: Hội họa, Đồ họa, Điêu khắc, Thiết kế Đồ họa, Thiết kế Thời trang, Thiết kế Nội thất, Sư phạm Mỹ thuật. Nhằm mở rộng quy mô và đa dạng hóa các loại hình đào tạo, nhà trường đã liên kết, hỗ trợ đào tạo cho nhiều trường Cao đẳng, Đại học trong khu vực; Bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ cho giáo sinh các trường Sư phạm Mẫu giáo, Trung học, Tiểu học. Ngoài ra, trường còn có các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên với nhiều trường Đại học khác trong khu vực và thế giới.
Đối với trường Đại học Nghệ thuật Huế, địa bàn miền Trung và Tây nguyên có một ý nghĩa đặc biệt trong việc tạo nên một sắc thái nghệ thuật vùng miền nói chung và đặc trưng trong công tác đào tạo nghệ thuật của trường nói riêng. Huế là cái nôi của nền văn hóa Phú Xuân, ngoài ra khu vực này còn là nơi hỗn dung của nhiều nền văn hóa nghệ thuật bản địa khác nhau, đáng lưu ý nhất là nghệ thuật Chăm và nghệ thuật của các dân tộc Tây nguyên. Trong lịch sử, địa bàn này còn là cửa ngõ tiếp hợp nhiều luồng văn hóa nghệ thuật từ bên ngoài: Mã lai đa đảo, Đông Bắc Á, lục địa Ấn Độ và cả Tây phương. Chính nhờ sự hỗn dung và tiếp hợp một cách tích cực này mà chỉ trên một dải đất chưa đầy 200 km đã quy tụ 3 di sản văn hóa với đặc trưng khác nhau và được UNESCO công nhận: Cố đô Huế – nơi trường Đại học Nghệ thuật Huế tọa lạc, Phố cổ Hội An và quần thể di tích Chăm ở Mỹ Sơn.
Nghiên cứu khoa học đặc biệt là về mảng nghệ thuật miền Trung, Tây nguyên phục vụ công tác đào tạo và giáo dục nghệ thuật là một nhiệm vụ quan trọng của nhà trường, trong những năm qua trường đã tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu nhiều đề tài cấp bộ, cấp trường, chương trình và giáo trình giảng dạy.
Bên cạnh đó, một mảng đặc thù trong nghiên cứu khoa học của trường Đại học Nghệ thuật Huế là văn hóa nghệ thuật miền Trung và Tây nguyên. Trường đã tổ chức hoặc phối hợp tổ chức thành công nhiều hội thảo khoa học, triển lãm, biểu diễn nghệ thuật, trại sáng tác cấp quốc gia và quốc tế. Trong những lần tổ chức Festival Huế hàng năm, sinh viên trường Đại học Nghệ thuật Huế luôn là thành phần năng động, sáng tạo nhất tham gia chuẩn bị và biểu diễn tại Festival, góp phần cho sự thành công chung của lễ hội văn hoá này.
Kết quả nghiên cứu thực trạng nghiên cứu khoa học về LGBT
Nhận thức của sinh viên Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế về khái niệm cộng đồng LGBT.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 55% sinh viên cho rằng người đồng tính là người cảm thấy giới tính mà bản thân suy nghĩ không đúng với giới tính sinh học đang mang. 42 sinh viên (tương đương 29%) cho rằng người đồng tính là người muốn sống với giới tính mà bản thân suy nghĩ, mong muốn thuộc về. Trong khi đó, 94 ý kiến (tương đương với 63 %) cho rằng người chuyển giới là người không chấp nhận giới tính sinh học của bản thân và muốn mọi người nhìn nhận đúng với giới tính bạn suy nghĩ và mong muốn về bản thân, 72 ý kiến (tương đương 48%) cho rằng người chuyển giới muốn sống với giới tính mà bản thân suy nghĩ và mong muốn thuộc về, đi sau đó là ý kiến cảm thấy giới tình mà bản thân suy nghĩ không đúng với giới tính sinh học đang mang có 65 cá thể chọn ý kiến này (chiếm 43%). Về nhóm người song tính, 126 ý kiến cho rằng đây là nhóm người cảm thấy hấp dẫn bởi cả 2 giới, và số ít hơn, 19 cá thể không biết đến khái niệm này, chiếm 13 %. Đối với nhóm người vô tính, có đến 104 ý kiến cho rằng đây là nhóm người không cảm thấy hấp dẫn bởi giới nào và 31 ý kiến không biết đến khái niệm này, tương đương với 21 %.
Về khái niệm giới, Viện nghiên cứu kinh tế xã hội và môi trường (iSEE) đã định nghĩa: (1) người đồng tính là người cảm thấy hấp dẫn về tình cảm, thể chất với người cùng giới, (2) người chuyển giới là người có giới tính sinh học không trùng với bản dạng giới của họ, (3) người song tính là người có khả năng cảm hấp dẫn về tình cảm, thể chất, với cả người cùng giới và khác giới, hoặc không phân biệt giới của họ, (4) người vô tính là người không có hoặc hiếm khi cảm thấy hấp dẫn tính dục với bất kỳ ai . Như vậy, qua khảo sát, ta thấy sự phân nhóm hiểu biết khá rõ nét, bên cạnh một nhóm có hiểu biết nhất định, thì vẫn còn đó một nhóm còn mập mờ nhiều khái niệm. Những khái niệm như bản dạng giới, giới tính sinh học… có thể khiến sinh viên lúng túng.
Có thể nói rằng nhận thức ở mức độ khoa học của sinh viên về khái niệm LGBT này vẫn chưa thực sự cao. Điều đặc biệt, với khái niệm người vô tính còn mới mẻ, ít được truyền thông nhắc đến, nhưng hầu hết các sinh viên vẫn hiểu và biết đúng về khái niệm này. Đồng thời, vẫn còn một số ít sinh viên không biết đến các giới tính sinh học này, điều này có thể là do vẫn chưa có sự truyền đạt chính thống các khái niệm này trong môi trường học tập và giáo dục hiện nay.
Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân xuất hiện LGBT
Trong 150 sinh viên tham gia khảo sát, khi được hỏi lý do xuất hiện LGBT, có 104 ý kiến (tương đương 88%) cho rằng đó là tự nhiên, hay là một sự đa dạng của giới tính, nhóm số ít hơn thuộc về các ý kiến như: bệnh tật, chỉ một nhóm người mắc phải: 6 ý kiến (8%); Chứng tâm thần, bệnh tâm lý: 10 ý kiến (7%); Đua đòi, tập nhiễm thể hiện bản thân: 16 ý kiến (11 %). Nghiên cứu định tính trên sinh viên Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (Tô Minh Ngọc và cộng sự, 2011) cũng cho một số sinh viên cho rằng đây là một căn bệnh, như bệnh viêm gan hay bệnh lao và theo họ nguyên nhân gây bệnh thì rất đa dạng có thể mẹ gặp những căng thẳng tâm lý khi mang thai, do biến động hormone. Tất cả sinh viên tham gia nghiên cứu cũng đều cho biết họ không được học kiến thức về đồng tính trong các học phần ở Trường Y vì thế các thông tin liên quan đến cộng đồng LGBT họ đều rất mơ hồ.
Để đánh giá một cách sâu sắc hơn nhận thức của sinh viên về nguyên nhân gây ra đồng tính, song tính và chuyển giới, nhóm tác giả đưa ra một số nhận định và xem xét tỷ lệ đồng tình và phản đối của sinh viên đối với những nhận định đó.
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu chứng tỏ rằng các sinh viên có cái nhìn nhận, đánh giá đúng về cộng đồng LGBT. Nếu so với kết quả nghiên cứu cùng đề tài ở Đại học Ngoại Thương, có một sự khác biệt không hề nhỏ, đặc biệt là về nguyên nhân và nhóm đối tượng, ở Đại học Nghệ thuật có cái nhìn tiến bộ và tích cực hơn. Bên vẫn có một số quan điểm thể hiện hai chiều đối lập nhau rõ ràng như: người đồng tính, song tính, chuyển giới mang tính bẩm sinh có 45 % ý kiến phản đối và 55 % ý kiến đồng tình hay người đồng tính thường làm trong lĩnh vực nghệ thuật có 51 % ý kiến phản đối và 49 % ý kiến đồng tình. Với quan điểm người đồng tính, song tính, chuyển giới mang tính bẩm sinh, khoa học đã chứng minh LGBT là bẩm sinh và với ý kiến người đồng tính thường làm trong lĩnh vực nghệ thuật thì hiện nay vẫn chưa có khảo sát chính thức về điều này.
Trước năm 1994 trên thế giới người ta vẫn quan niệm rằng, đồng tính là một căn bệnh thuộc nhóm bệnh lệch lạc giới tính và có liên quan đến các biểu hiện suy đồi đạo đức. Thậm chí một số quốc gia còn liệt đồng tính là một bệnh thuộc bệnh tâm thần và cần theo dõi sát sao. Từ sau năm 1994, các nhà khoa học đã nhận ra sai lầm của mình nên từ đó đồng tính luyến ái không bị coi là một căn bệnh nữa. Họ cho rằng đây là một hiện tượng, một thiên hướng tình dục bình thường.
Như vậy, kết quả nghiên cứu này cho thấy phần lớn sinh viên Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế đã có nhận thức khá tiến bộ về nguyên nhân gây nên đồng tính, lưỡng tính và chuyển giới. Đây chính là cơ sở quan trọng để họ có thể có quan điểm đúng đắn về cộng đồng LGBT, từ đó có cái nhìn cởi mở, công bằng đối với cộng đồng này. Tuy nhiên, dù nhận định đây là một sự đa dạng về giới tính sinh học, nhưng vẫn còn một bộ phận sinh viên quan niệm rằng đồng tính là bệnh, không phải do bẩm sinh; và người đồng tính thường có biểu hiện không bình thường.
Cho đến bây giờ vẫn chưa có một lời lý giải chắc chắn nào về nguyên nhân gây nên xu hướng tình dục khác biệt như đồng tính, song tính, vô tính… Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng dù đâu đó, trong xã hội Việt Nam, vẫn còn những trường hợp đồng tính giả, bị cho là mode để đua theo, hoặc do đối tượng bị cuốn hút bởi những miếng mồi vật chất của kẻ xấu, là một lối sống lệch chuẩn, vi phạm thuần phong mỹ tục, thì rất nhiều cá nhân thuộc cộng đồng LGBT đã và đang nỗ lực sống tốt, mong muốn được là chính mình, không bị kỳ thị và không bị hủy hoại bởi các định kiến xã hội.
Nhận thức của sinh viên Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế về một số vấn đề khác liên quan đến cộng đồng LGBT
Ngoài việc khảo sát nhận thức của sinh viên Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế về khái niệm, nguyên nhân gây đồng tính, song tính và chuyển giới, nhóm tác giả còn tìm hiểu thêm một số tri thức liên quan khác đến cộng đồng LGBT như thời gian xuất hiện cộng đồng LGBT, địa bàn phân bố, tỷ lệ đồng tính nam và đồng tính nữ…
Xét về thời gian xuất hiện, có đến 96 sinh viên không rõ thời gian xuất hiện cộng đồng LGBT. Trong các số liệu lịch sử, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng: từ thời trung cổ, đã xuất hiện các chi tiết về quan hệ đồng giới, còn trong thời phong kiến thì cũng đã ghi nhận một số trường hợp chuyển giới hoặc quan hệ đồng giới nam ở các bậc quan lại. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu chính thức hay báo cáo cụ thể đáng tin cậy về thời điểm xuất hiện cộng đồng LGBT, nên đa phần sinh viên tham gia khảo sát không có sự am hiểu chuyên sâu về vấn đề này.Đi sâu vào khảo sát nhóm số đông trong cộng đồng LGBT, có 83 sinh viên (tương đương 55 %) cho rằng đồng tính nam chiếm số đông. Về địa bàn phân bố, 148 sinh viên (chiếm 98 %) cho rằng thành thị là nơi có cộng đồng LGBT chiếm phần lớn, còn 3 sinh viên không có ý kiến về câu trả lời này. Cũng không có khảo sát chính thức nào về địa bàn các nhóm LGBT, nhưng khi được hỏi tại sao anh/ chị lại nghĩ như vậy ? đối với các sinh viên phỏng vấn trực tiếp, câu trả lời mà nhóm chúng tôi nhận được đó là thành phố có lối sống phức tạp và ít quan tâm nhau hơn, nên mọi người được thoải mái thể hiện chính mình. Mặc khác, nông thôn và các địa bàn khác, dư luận xã hội còn rất lớn, định kiến về LGBT vẫn còn nên việc thể hiện xu hướng tính dục là điều vô cùng nguy hiểm.
Về lĩnh vực hoạt động, 119 sinh viên tham gia khảo sát (chiếm 79 %) cho rằng cộng đồng LGBT hoạt động chính và xuất hiện nhiều nhất trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Còn các lĩnh vực như quản lý hành chính, dịch vụ chăm sóc khách hàng và một số lĩnh vực khác, hoặc câu trả lời không rõ ít được lựa chọn hơn. Một số quan điểm cho rằng môi trường văn hóa, nghệ thuật là một môi trường đa dạng và đầy sắc màu, nên việc tôn trọng giới tính thật cũng như công khai giới tính thật ở đó không có gì đáng chú ý; Bên cạnh đó, còn một số ý kiến cho rằng, môi trường văn hóa, nghệ thuật có sự cạnh tranh khốc liệt, nên các văn nghệ sĩ thường thu hút sự chú ý của công chúng bằng những điều bất thường, khác người, và việc công khai giới tính thật, hay có khi chỉ là giới tính giả tạo cũng là một cách gây sự chú ý. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu của iSEE, thì tỷ lệ người đồng tính làm việc trong nhóm này (văn hóa – nghệ thuật) chỉ đứng thứ hai, chiếm 13.5%, sau nhóm làm trong lĩnh vực dịch vụ khách hàng (18%) và chỉ nhỉnh hơn nhóm nghiên cứu và khoa học kỹ thuật đôi chút.
Nguồn thông tin về LGBT
Nguồn thông tin mà sinh viên tiếp nhận để có được những hiểu biết về LGBT là một khía cạnh khá quan trọng trong nhận thức và thái độ của sinh viên về LGBT luyến ái. Đối với giới trẻ, việc tiếp cận được những kênh thông tin chính thống, khoa học là điều hết sức cần thiết hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy có đến 102 sinh viên (tương đương 68 %) tìm hiểu thông qua Internet; 97 sinh viên (tương đương 57 %) tìm hiểu qua sách báo, tạp chí hay các tài liệu; 61 sinh viên (tương đương 41 %) là thông qua bạn bè. 59 sinh viên (tương đương 39%) tự tìm hiểu; 36 sinh viên (tương đương 24 %) thông qua tin tức truyền hình; Và chỉ có 7 sinh viên (tương đương 5 %) tìm hiểu thông tin qua người thân hay gia đình.
Điều này cho thấy sự chủ động tìm hiểu thông tin của sinh viên rất lớn, đồng thời việc sử dụng internet để tìm hiểu và cập nhật thông tin hiện nay ở giới trẻ cũng rất phổ biến. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, nguồn thông tin qua Internet vẫn là nguồn thông tin không chính thống, và rất nhiều bài báo đưa tin sai lệch và không chính xác về cộng đồng LGBT. Tiếp cận với những nguồn thông tin này, nhận thức của sinh viên về LGBT chắc chắn sẽ bị tác động theo chiều hướng tiêu cực.
Năm 2009, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường cùng với Học viện Báo chí và Tuyên truyền, qua nghiên cứu hơn 500 bài báo thuộc bốn báo in và sáu báo mạng, cung cấp kết quả tỉ lệ kỳ thị chiếm 41%, không kỳ thị chiếm 18%, không xác định 41%. Tuy nhiên, cộng đồng đồng tính Việt Nam rất đa dạng, không như mô tả của hơn 500 bài báo này. Bên cạnh đó, khảo sát của Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường cùng với Học viện Báo chí và Tuyên truyền cũng chỉ ra một số vấn đề sai lệch khác mà báo chí đưa tin về cộng đồng LGBT như: Các khái niệm liên quan đến đồng tính bị sử dụng nhầm lẫn: như quy khái niệm chuyển giới về khái niệm đồng tính, nhầm lẫn bản chất của định hướng tình dục, bản dạng tình dục và hành vi tình dục…; Nhấn mạnh quá mức hoặc phiến diện về nhu cầu tình dục của người đồng tính; Mô tả thiên lệch mối quan hệ của người đồng tính; Mô tả chân dung người đồng tính với nhân cách hay đạo đức không tốt; Các nhu cầu của người đồng tính được đề cập thiếu khách quan, các quyền của người đồng tính không được nhắc đến.
Như vậy, rõ ràng rằng báo chí không phải là một kênh thông tin đáng tin cậy là sinh viên có thể tham khảo khi muốn tìm hiểu về LGBT.
Ngoài ra, số liệu khảo sát cũng chỉ ra rằng các bậc cha mẹ, phụ huynh vẫn còn rất e dè trong việc chia sẻ, tìm hiểu thông tin cùng con cái về LGBT. Điều này có thể dẫn đến một hệ quả đó là nếu như trong một gia đình có con thuộc cộng đồng LGBT thì sẽ là một khó khăn trong việc chia sẻ và cảm thông từ hai phía.
Nhìn chung, qua khảo sát này, nhóm nghiên cứu nhận ra rằng: phần lớn các sinh viên tham gia khảo sát có một lượng kiến thức khoa học nhất định về cộng đồng LGBT, qua đó cũng thể hiện có cái nhìn thiện cảm và bớt tiêu cực hơn người khác. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số sinh viên nhất định chưa có những hiểu biết đúng đắn về cộng đồng LGBT, có những định kiến, quan điểm tiêu cực, ít thiện cảm đối với cộng đồng LGBT.
Thái độ của sinh viên Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế về cộng đồng LGBT
Thực sự kết quả khảo sát nhận thức của sinh viên Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế cũng đã cho thấy một phần lớn thái độ thiện cảm và ít định kiến của sinh viên Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế về cộng đồng LGBT. Tuy nhiên, để tìm hiểu trực tiếp và cụ thể hơn về thái độ của họ về vấn đề cộng đồng này, nhóm nghiên cứu đã khảo sát chi tiết hơn về một số vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, giao tiếp của sinh viên Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế với cộng đồng LGBT.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 80 sinh viên (chiếm 53 %) có bạn bè, người thân thuộc nhóm LGBT và 70 sinh viên (chiếm 47 %) không có bạn bè, người thân thuộc nhóm LGBT. Đi sâu tìm hiểu nhóm có bạn bè, người thân thuộc LGBT, có 40 sinh viên (chiếm 50%) biết được bạn bè hay người thân thuộc nhóm LGBT là do chính người đó chia sẻ, 11 sinh viên (chiếm 27,5 %) là tự cảm nhận được. Phản ứng đầu tiên của nhóm trên đa phần là cảm thông, chiếm 30 %, sốc chiếm,15 %, tôn trọng chiếm 15 %, bình tĩnh chiếm 10 %,. Sự thể hiện thái độ có 3 biểu hiện chung nhất đó là (1) cảm thông, (2) sốc và (3) tôn trọng. Không có sinh viên nào thuộc nhóm trên thể hiện thái độ tiêu cực hay chối bỏ giới tính thật của bạn mình. Qua đó, ta có thể thấy rằng, Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế là một môi trường thuận lợi để những cá nhân có thể công khai giới tính thật của mình mà ít bị kỳ thị, dò xét, ảnh hưởng đến cuộc sống riêng của bản thân.
Xét trong mối tương quan giữa giới tính và thái độ, kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên là nữ có xu hướng đồng cảm với người trong cộng đồng LGBT nhiều hơn là nam, một phần nguyên nhân chủ quan do tỉ lệ giới tính trong sinh viên không đồng đều, còn khách quan là sinh viên nữ có sự đồng cảm, cảm thông và ít định kiến đối với người trong cộng đồng LGBT.
Qua phỏng vấn, thái độ cảm thông thuộc nhóm những sinh viên cảm thấy bạn mình không được như người khác và bạn sẽ bị đối xử khác đi. Thái độ sốc được giải thích do sự thể hiện giới khác hoàn toàn với giới tính sinh học của người đó. sinh viên thể hiện thái độ tôn trọng với cộng đồng LGBT vì cho rằng ai cũng có quyền con người, được quyền sống đúng với bản chất thật của mình. thể hiện sự tôn trọng với giới tính thật của đối tượng. Nhìn chung, các biểu hiện đều mang hướng tích cực hoặc trung hòa, không có hướng tiêu cực hay phản kháng, thể hiện sự hiểu biết và nhìn nhận về giới tính con người tương đối rõ ràng và đúng mực.
Còn về vấn đề hôn nhân đồng giới (hôn nhân đồng giới), quan điểm cá nhân về vấn đề này, các ý kiến người đồng tính được sống thật với chính mình chiếm 57 %, đảm bảo quyền con người chiếm 32 % là chiếm đa số so với các ý kiến còn lại.
Trong khi đó, kết quả khảo sát về việc pháp luật công nhận hôn nhân đồng giới có đến có 51 sinh viên, tương đương 69 % ủng hộ với những lý do sau: (1) người đồng tính được sống thật với chính mình (57%), đảm bảo quyền con người (32%). Đồng thời, 72 sinh viên (chiếm 48 %) cảm thấy không ảnh hưởng gì với vấn đề này. Và có 61 sinh viên, (chiếm 41 %) xem đây là sự công bằng nên có dành cho mọi người. Như vậy, có thể thấy khá nhiều sinh viên có thái độ tương đối cởi mở đối với việc ủng hộ người đồng tính có thể tiến đến hôn nhân với nhau. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn có một số sinh viên còn băn khoăn về vấn đề này, ví dụ như chấp nhận hôn nhân đồng giới ảnh hưởng đến chất lượng nòi giống hay phá vỡ kết cấu gia đình truyền thống…
Bảng nghiên cứu cũng xét trong một mối tương quan khác, đó là tôn giáo sinh viên đang theo, thì những sinh viên đang theo một tôn giáo có 10/14 là có bạn trong cộng đồng LGBT, thì cảm xúc đa phần theo chiều hướng tích cực, có số ít hơn là 2 sinh viên trong số này cảm xúc ít tích cực hơn đó là bình tĩnh. Cũng xét một khía cạnh đi sâu khác, 10/14 sinh viên trong số này ủng hộ hôn nhân đồng giới và xem đây là một sự công bằng, số ít hơn có một sinh viên cảm thấy vấn đề này đụng chạm đến niềm tin tôn giáo của mình. Qua đó, ta thấy rằng, niềm tin tôn giáo dù ở đâu cũng hướng con người đến sự thánh thiện, xu hướng nhìn nhận tích cực về vấn đề LGBT phần nào thể hiện điều này, mặc dù bên cạnh đó vẫn còn một số ít khó khăn trong việc tiếp nhận tư tưởng ủng hộ cộng đồng LGBT. Để thấy rằng, con đường phía trước, trong việc nhận được sự đồng cảm, cảm thông và chia sẻ từ những người dị tính đối với cộng đồng LGBT còn xa và nhiều khó khăn, nhưng không thể không tin vào những điều tích cực, tốt đẹp mà bảng nghiên cứu đã thể hiện.
Như vậy, phần đông ý kiến ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, đây là một ý kiến gây nhiều tranh cãi, với nhiều lập luận, tuy nhiên các sinh viên tham gia khảo sát không phân luồng quan điểm mà phần đông đứng về một phía. Trong tình hình hiện tại, Quốc hội đang lấy ý kiến về sửa đổi luật Hôn nhân và gia đình, trong đó cân nhắc đồng ý hôn nhân đồng giới. Với kết quả khảo sát này, các tổ chức hoạt động vì quyền con người sẽ có thêm cơ sở, tiền đề đề thúc đẩy nhanh quyết định của Quốc hội về vấn đề này.
Nhìn nhận sự ảnh hưởng của hôn nhân đồng giới đối với bản thân, với ý kiến không ảnh hưởng gì chiếm 48 %, tôi thấy mọi người nên được đối xử như nhau chiếm 41 %. Đa phần các quan điểm đưa ra đều rất tích cực và lạc quan, phần đông (72 ý kiến, 48 % sinh viên) cảm thấy không ảnh hưởng bởi quyết định này, và 61 ý kiến cho rằng mọi người nên được đối xử như nhau, việc chấp thuận hôn nhân đồng giới thể hiện rõ điều này. Một số ít hơn bị ảnh hưởng bởi tôn giáo đang theo. Điều này thể hiện sự phản hồi về một quyết định mà mình không nhận được bất kỳ lợi ích nào, các sinh viên tham gia vẫn rất công bằng khi đưa ra quyết định.
Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và thái độ về cộng đồng LGBT trong tầng lớp sinh viên
Phổ biến tài liệu về cộng đồng LGBT
Mục đích
– Cung cấp cho sinh viên nguồn kiến thức tham khảo về LGBT, từ đó có thể chủ động tiếp thu thêm các kiến thức về LGBT và tư tưởng mới về điều này
Nội dung
– Cung cấp tài liệu về LGBT (khái niệm, kiến thức, các nghiên cứu).
– Cung cấp các phụ kiện liên quan đến LGBT (vòng tay, quạt cầu vồng, vòng 7 sắc).
Cách thực hiện
– Xây dựng các tụ điểm phát tài liệu, phụ kiện.
– Cấp phát về các clb, đội nhóm hoạt động trong trường.
Talkshow với người trong cộng đồng LGBT
Mục đích
– Tạo điều kiện để sinh viên có thể tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với người trong cộng đồng LGBT, qua đó hiểu và đồng cảm hơn với họ.
Nội dung
– Talkshow về các vấn đề: quá trình nhìn nhận giới tính, vượt qua định kiến, sống là chính mình
Cách thực hiện
– Liên hệ với những người trong cộng đồng LGBT ở Huế và xin phép trường tổ chức.
– Mời các một số sinh viên tham gia nghiên cứu trực tiếp tham gia, cùng đối thoại, trò chuyện, trao đổi các vấn đề liên quan.
Đưa LGBT vào giáo trình Giáo dục giới tính
Mục đích
Nâng cao tri thức và nhận thức cho sinh viên về mảng LGBT.
Nội dung
– Truyền đạt tri thức về: khái niệm, nguồn gốc, phân biệt giới trong mảng LGBT.
– Truyền đạt thái độ về: đồng cảm, chia sẻ với người trong cộng đồng LGBT.
Cách thực hiện
– Lồng ghép nội dung trong giáo trình Giáo dục giới tính, giáo viên trực tiếp truyền đạt trên lớp với những tài liệu soạn sẵn, có sự hỗ trợ từ các bên liên quan.
Tập huấn cho cán bộ lớp về LGBT
Mục đích
– Truyền đạt tri thức và thông điệp về LGBT, đặc biệt là những thành viên quản lý, chịu trách nhiệm về lớp.
– Hiểu rõ định kiến, sự kỳ thị, qua đó với vai trò là CBL sẽ hỗ trợ, giúp đỡ những sinh viên trong cộng đồng LGBT vượt qua mặc cảm, khó khăn để hòa nhập với cộng đồng và nhận sự đồng cảm, giúp đỡ từ mọi người xung quanh.
Nội dung
– Truyền đạt các kiến thức căn bản về LGBT, những khó khăn về định kiến mà nhóm cộng đồng LGBT thường gặp phải.
– Nâng cao kỹ năng tham vấn, hỗ trợ vượt qua khó khăn
Cách thực hiện
– Sử dụng các tài liệu chuyên về LGBT làm công cụ truyền đạt tri thức.
– Mời các chuyên viên, người trong cộng đồng LGBT hỗ trợ tập huấn.
– Mời các cán bộ lớp tham gia tập huấn,
– Tập huấn dựa trên nội dung đã soạn sẵn về LGBT.
Nói chuyện chuyên đề: LGBT và những định kiến
Mục đích
– Gặp gỡ, trao đổi giữa các bên về vấn đề LGBT và những định kiến mà cộng đồng LGBT gặp phải,
– Nhìn nhận vấn đề, tìm hướng giải quyết vấn đề theo chiều hướng tích cực.
Nội dung
Trao đổi giữa các bên về các vấn đề: LGBT trong xã hội hiện nay, nhận thức, thái độ của cộng đồng.
Lắng nghe chia sẻ từ những người trong cộng đồng LGBT.
Tìm hướng giải quyết thích hợp để giảm thiểu sự kỳ thị trong cộng đồng đối với LGBT.
Cách thực hiện
Mời các bên liên quan tham gia.
Tổ chức theo khung chương trình định sẵn.
Xây dựng kế hoạch truyền thông và thu thập kết quả chuyên đề để đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Vẽ tranh: 7 sắc cầu vồng
Mục đích
– Sân chơi cho sinh viên Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế thể hiện tài năng và tiếng nói ủng hộ đến cộng đồng LGBT.
– Tác phẩm đạt giải được sử dụng làm công cụ truyền thông quảng bá hình ảnh, đẩy lùi sự kỳ thị đối với cộng đồng LGBT.
Nội dung
– Thí sinh là sinh viên Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế tham gia vẽ tranh về các chủ đề: sự kỳ thị, sự ủng hộ, cộng đồng LGBT trong cuộc sống
– Thi gửi online ở vòng loại và thi vẽ trực tiếp ở vòng chung kết
Cách thực hiện
– Vòng loại: thí sinh tham gia gửi ảnh theo chủ đề hằng tuần do BTC quy định, mỗi tuần chọn ra 2 tác giả có tiềm năng để vào vòng chung kết
– Vòng chung kết: các thí sinh được tuyển ở vòng loại tham gia ở vòng chung kết thể hiện ý tưởng của mình thông qua chủ đề BTC đưa ra trong vòng 2h. Thí sinh được điểm cao nhất (của khán giả và BTC) sẽ là người chiến thắng.
Kết luận chương
Qua quá trình điều tra thực trạng, nhóm nghiên cứu đi đến kết luận cơ bản sau:
Đa số sinh viên Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế có nhận thức, thái độ tích cực, thiện cảm đối với cộng đồng LGBT, bên cạnh một số ít còn tiêu cực, thiếu thiện cảm đối với công đồng này.
Kiến thức về LGBT của sinh viên Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế đảm bảo sự hiểu biết chung, tuy nhiên còn hạn chế ở mặt chuyên sâu và chi tiết từng nhóm, điều này có thể giải thích thông qua việc sinh viên Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế tiếp thu và rèn luyện các kỹ năng về nghệ thuật hơn là kiến thức về xã hội.
Các biện pháp nêu ra có thể hiện thực hóa trong thực tế, mang tính ứng dụng cao và hiệu quả thực tế rõ ràng, mang tính nhân văn sâu sắc.
Tài liệu tham khảo
– [1] Don Colby, Cao Hữu Nghĩa và Serge Doussantousse, (2004), Men who have sex with men and HIV in Vietnam, AIDS Education and Prevention, 16, 45 – 54.
– [2] Tô Minh Ngọc, Trương Phi Hùng, Phạm Hằng Hà, (2010), Quan điểm về đồng tính của sinh viên y tế công cộng Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
– [3] Đặng Kim Hoàn, Nguyễn Thị Thanh Phượng, Đinh Thị Huyền Trang, (2012), Thái độ của sinh viên Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng với tình dục đồng giới.
– [4] Nhận thức sinh viên Ngoại thương vấn đề đồng tính, (2013).
– [5] Mạch Thị Hải, Bùi Thị Xuân, Hoàng Thị Nhàn Phương, Dương Bảo Việt, Lê Đình Tú, Nguyễn Thành Công, Trần Văn Hùng, (2014), Thái độ của sinh viên trường Học viện công nghệ bưu chính viễn thông đối với đồng tính luyến ái.
– [6] iSEE, (2015), Bảng đối chiếu thuật ngữ LGBT.
– [7] Wikipedia, LGBT, (2015).
– [8] Võ Văn Nam, Gia tăng tội phạm đồng tính trong giới trẻ, 15/12/2015.
– [9] Trần Tuấn, Giả đồng tính để chứng tỏ… sành điệu, 15/12/2015.
– [10] Crompton, Louis (2003), Homosexuality and Civilization, Cambridge, Massachusetts: Belknap Press.
– [11] Bagemihl, Bruce (1999), Biological Exuberance: Animal Homosexuality and Natural Diversity, London: Profile Books, Ltd.
– [12] Roughgarden, Joan (5/2004), Evolution_s Rainbow: Diversity, Gender, and Sexuality in Nature and People, Berkeley, CA: University of California Press.
– [13] Driscoll, Emily V, (7/2008), Bisexual Species: Unorthodox Sex in the Animal Kingdom, Scientific American.
– [14] Rosario, M., Scrimshaw, E., Hunter, J., & Braun, L. (2/2006), Sexual identity development among lesbian, gay, and bisexual youths: Consistency and change over time.
– [15] Appropriate Therapeutic Responses to Sexual Orientation, 15/10/2015.
– [16] Rosario, M., Scrimshaw, E., Hunter, J., & Braun, L. (2/2006), Sexual identity development among lesbian, gay, and bisexual youths: Consistency and change over time.
– [17] Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders 4, (1994), American Psychiatric Association.
– [18] Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders 5, (2013), American Psychiatric Association.
– [19] Robert Ernest Hales, Stuart C. Yudofsky, Glen O. Gabbard, (2008),The American Psychiatric Publishing textbook of psychiatry, American Psychiatric Publishing.
– [20] Viện nghiên cứu Kinh tế Xã hội và Môi trường và Học viện Báo chí và Tuyên truyền, (2008), Đặc điểm kinh tế xã hội của nam giới có quan hệ tình dục đồng giới tại Việt Nam.
– [21] Khoa Mác Lênin, Giáo trình Bộ môn Triết học, Trường Đại học Khoa học Bách khoa Hà Nội.
– [22] Nhiều tác giả, (2005), Nhận thức, Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ Điển Bách Khoa.
– [23] Phạm Quang Uẩn, (2007), Tâm lý học hoạt động, NXB Sư phạm Hà Nội.
– [24] Chương 5: Lý luận nhận thức, Giáo trình khoa Mác Lênin, Trường Đại học Mỏ – Địa chất.
– [25] Viện Xã hội học và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi trường, Quan điểm xã hội với hôn nhân cùng giới, (15/12/2015).