
Triết học có quá Tây hóa vì lợi ích của chính nó không?
Việc phá bỏ Bức tường Berlin của triết học và hợp nhất đông – tây có phụ thuộc hoàn toàn vào việc chúng ta hiểu triết học là gì không?
15 phút đọc · lượt xem.
Việc phá bỏ Bức tường Berlin của triết học và hợp nhất đông – tây có phụ thuộc hoàn toàn vào việc chúng ta hiểu triết học là gì không?
Triết học phương Tây từ lâu đã có thói quen vạch ra một ranh giới chặt chẽ, tuyên bố rằng triết học đích thực chỉ tồn tại trong phạm vi của nó. Trong nhiều thế kỷ, một số nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất đã bác bỏ ý tưởng rằng tư duy sâu sắc và nghiêm túc có thể phát triển ngoài phương Tây.
Immanuel Kant, khi phát biểu từ bàn làm việc của mình ở Königsberg, đã không vòng vo: Triết học không tồn tại trong toàn bộ phương Đông. Hai thế kỷ sau, Martin Heidegger còn khẳng định mạnh mẽ hơn, như thể thời gian không làm gì để mở rộng giới hạn này. Ông lập luận rằng gọi đó là triết học Tây Âu là thừa thãi – bởi vì, theo ông, bản chất của triết học là Hy Lạp. Ngay cả đến năm 2001, khi giao lưu trí thức toàn cầu đã trở thành tiêu chuẩn, Jacques Derrida vẫn khiến các học giả Trung Quốc kinh ngạc khi tuyên bố rằng Triết học có hình thức châu Âu và rằng Trung Quốc không có triết học, chỉ có tư tưởng.
Một thực tế còn đọng lại
Những tuyên bố táo bạo rằng Triết học đã bị Tây hóa thoạt nhìn có vẻ cực đoan hoặc lỗi thời. Nhưng nếu xem xét kỹ hơn chương trình Cử nhân Triết học tiêu chuẩn, bạn sẽ thấy âm vang của chúng vẫn còn rõ ràng. Chương trình học chủ yếu tập trung vào hành trình xuyên suốt tư tưởng châu Âu: từ Hy Lạp cổ đại, Trung cổ, cận đại cho đến hiện đại – với một thực đơn phong phú của Kant, điểm xuyết Descartes, và kèm theo một phần Wittgenstein.
Muốn mở rộng ra ngoài châu Âu? Trừ khi bạn theo học ở một trường đại học có chương trình thử nghiệm hiếm hoi, bạn sẽ phải rời khỏi khoa triết học hoàn toàn và đăng ký vào một chuyên ngành nghiên cứu châu Á để có thể tiếp cận được truyền thống trí tuệ của một nửa thế giới.
Điều đó không có nghĩa là triết học liên văn hóa hoàn toàn vắng bóng. Sách và bài viết về các truyền thống Á Đông vẫn tồn tại, nhưng chúng thường được viết bởi những học giả chuyên môn – những người quyết tâm kết nối những thế giới mà giới học thuật vẫn muốn tách rời. Lịch sử cũng không hoàn toàn đơn phương.
Arthur Schopenhauer, triết gia người Đức thế kỷ 19, là một trường hợp đặc biệt. Ông không chỉ đơn thuần tìm hiểu tư tưởng phương Đông – ông nghiền ngẫm nó, đặt Đức Phật và các kinh Upanishad ngang hàng với Plato và Kant như những thành tựu trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Ta có thể tưởng tượng những ánh mắt ngờ vực từ các đồng nghiệp châu Âu của ông.
Nhưng những trường hợp ngoại lệ này chỉ như giọt nước giữa đại dương. Theo triết gia Jonardon Ganeri, triết học hiện đại có một bí mật đen tối – một nỗi sợ hãi âm ỉ đối với những góc nhìn ngoài phạm vi kinh điển phương Tây. Thay vì chào đón các truyền thống phi phương Tây vào cuộc thảo luận, các khoa triết học lặng lẽ gạt chúng sang một bên, đẩy chúng vào khoa nghiên cứu tôn giáo, như thể chúng đã đi lạc vào một tòa nhà sai địa chỉ.
Khi triết học trở thành một câu lạc bộ độc quyền
Triết gia Bryan Van Norden hiểu rất rõ về sự loại trừ này. Trong tác phẩm Giành lại triết học, (Taking back philosophy) ông kể lại cách một giáo sư phản ứng khi ông đưa tư tưởng phi phương Tây vào luận án của mình. Phản hồi không phải là một lập luận phản biện – mà là một lời gợi ý nhẹ nhàng rằng ông nên tìm một nơi khác phù hợp hơn. Có lẽ khoa nghiên cứu tôn giáo sẽ phù hợp hơn, vị giáo sư suy tư. Hoặc có thể là một khoa khác, nơi nghiên cứu sắc tộc sẽ có vẻ… hợp lý hơn.
Điều này không giống Kant chút nào!
Câu hỏi thực sự là: có lý do chính đáng nào để giữ mọi thứ như hiện trạng không? Triết học, trong tất cả các lĩnh vực, tự hào về tư duy logic và lý trí – vậy lẽ nào chúng ta không nên mong đợi một lập luận vững chắc?
Tuy nhiên, theo Bryan Van Norden, sự thật khó chịu lại đơn giản hơn nhiều: Phân biệt chủng tộc. Ông chỉ ra rằng chương trình giảng dạy gần như đơn sắc trắng của triết học, trong đó gần như tất cả các triết gia vĩ đại đều là đàn ông da trắng, không phải là một sự tình cờ. Nó là một phần của một mô hình rộng lớn hơn về chủ nghĩa bài ngoại, chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa dân tộc, và nỗ lực phân biệt chúng ta với họ.
Ít nhất, Van Norden cùng triết gia Jay Garfield đề xuất rằng các khoa triết học nên thẳng thắn về nội dung thực sự của họ. Nếu họ từ chối tương tác với các truyền thống phi phương Tây, thì điều trung thực nhất họ có thể làm là ngừng giả vờ và đổi tên thành Khoa Triết học Châu Âu và Mỹ.
Phức tạp hơn chỉ là một vấn đề về phân biệt chủng tộc
Dẫu vậy, thực tế phức tạp hơn là chỉ đơn giản gọi đó là phân biệt chủng tộc. Những lập luận phản bác, công bằng mà nói, không phải là không có giá trị. Rốt cuộc, chúng ta có thể nói về một truyền thống triết học châu Âu – một mạng lưới ý tưởng khổng lồ và tinh vi đã phát triển qua nhiều thời đại.
Alfred North Whitehead từng nói rằng triết học phương Tây chỉ là một chuỗi chú thích về Plato. Có thể câu này hơi cường điệu, nhưng bản chất của nó không sai: triết học không xuất hiện trong chân không. Nó là một cuộc đối thoại kéo dài, một chuỗi phản biện và tranh luận trải qua nhiều thế hệ. Ngay cả những ý tưởng cách mạng nhất cũng không xuất hiện từ hư không – chúng bùng lên từ tàn tro của những nhà tư tưởng đi trước.
Điều tương tự cũng đúng với các truyền thống triết học lớn của Trung Quốc và Ấn Độ. Triết học Phật giáo phát triển như một cuộc hội thoại sử thi, một cuộc đối thoại phức tạp kéo dài hơn 2.500 năm, truy nguyên nguồn gốc từ những lời dạy sơ khai của Đức Phật. Triết học Ấn Độ, mặt khác, là một quá trình xếp chồng tư tưởng chậm rãi và tỉ mỉ, dựa trên nền tảng vững chắc của kinh Vedas và Upanishads. Những truyền thống này không tồn tại một cách biệt lập – các ý tưởng vẫn có sự giao thoa. Nhưng cốt lõi của chúng là những cuộc đối thoại nội bộ, một thế giới trí tuệ rộng lớn với trọng lực riêng, khiến người ngoài khó có thể nhảy vào giữa dòng chảy.
Những rào cản không chỉ là ngôn ngữ
Không chỉ đơn thuần là việc học tiếng Hán cổ hay tiếng Phạn, mà là việc điều hướng một mê cung dày đặc các điểm tham chiếu. Cũng như việc hiểu Kant trở nên dễ dàng hơn nếu bạn biết về Descartes, Leibniz và Hume, thì việc tiếp cận triết học Trung Quốc không đơn giản là đọc Zhu Xi – mà là quay về với Mạnh Tử, Khổng Tử, và xa hơn nữa.
Thậm chí, có thể giáo sư của Van Norden đã có lý. Nếu các hệ tư tưởng phương Đông gắn bó chặt chẽ với truyền thống tôn giáo, thì liệu có thực sự ngạc nhiên khi giới học thuật xếp chúng vào khoa nghiên cứu tôn giáo? Ấn Độ giáo, Phật giáo và Nho giáo không chỉ là những trường phái tư tưởng – chúng là những truyền thống sống, đan xen với thiền định, nghi lễ, và thực hành huyền bí. Không có gì lạ khi chúng không vừa vặn với khuôn khổ triết học phương Tây.
Một số người thậm chí cho rằng việc khăng khăng yêu cầu điều đó là chủ nghĩa đế quốc trí thức. Ai nói rằng những truyền thống này từng tìm kiếm sự công nhận là triết học? Có lẽ những nhà tư tưởng của họ sẽ cảm thấy thú vị khi nhìn các học giả vật lộn để đưa họ vào khuôn mẫu học thuật. Chúng ta có đang cố ép buộc quá mức để chứng minh rằng họ xứng tầm? Nhà triết học James Apple gợi ý một cách tiếp cận khác: Thay vì buộc họ phản chiếu kỳ vọng của chúng ta, hãy để họ tự định nghĩa. Điều đó không làm giảm giá trị của họ – mà là tôn vinh họ đúng với bản chất thực sự của mình.
Rào cản lớn nhất: Triết học trông như thế nào?
Và điều này dẫn chúng ta đến rào cản lớn nhất: đối với những người trưởng thành trong môi trường học thuật hiện đại, nhiều văn bản phi phương Tây đơn giản là không trông giống triết học. Phong cách huyền bí của chúng chống lại lập luận rõ ràng, hiện đại thường thấy trong các tạp chí triết học danh tiếng phương Tây. Chúng có thể mang hình thức thơ ca dạng câu đố, những câu chuyện dài dằng dặc, hoặc ẩn dụ phức tạp – khác xa với kiểu lập luận từng bước chặt chẽ mà các triết gia phương Tây được đào tạo để mong đợi. Đối với một người quen tìm kiếm lập luận sắc bén, được trau chuốt kỹ lưỡng, lãnh địa này có thể cảm giác quá hoang dại để khám phá.
Dĩ nhiên, không phải mọi văn bản chứa tư tưởng sâu sắc đều tự động là triết học. Những bộ phim kích thích tư duy hay bài thơ sâu sắc có phải là triết học không? Nhà triết học Costica Bradatan cảnh báo về việc đặt ra những ranh giới cứng nhắc, đặt câu hỏi: Làm sao chúng ta biết, khi bị cuốn vào một bài thơ Sufi, đâu là điểm kết thúc của thơ ca và đâu là điểm khởi đầu của triết học? Nhưng điều này có vẻ quá lỏng lẻo. Chắc chắn phải tồn tại một giới hạn nào đó. Nếu không, điều gì phân biệt triết học với những suy nghĩ vẩn vơ trên mạng xã hội? Như Stafford Betty lập luận, phải có ít nhất một nỗ lực tối thiểu nhằm giải thích hợp lý – một niềm tin rằng logic, tính mạch lạc và sự biện minh cẩn thận có thể giúp chúng ta đánh giá thực tại và xây dựng sự hiểu biết có ý nghĩa về thế giới.
Triết học thực sự là gì?
Như bạn có thể thấy, ngay khi chúng ta bắt đầu thử đẩy những rào cản văn hóa của triết học, một điều thú vị xảy ra – câu hỏi ngày càng mở rộng, trở nên choáng ngợp: Triết học thực sự là gì? Thực tế, đây là một trong những câu hỏi được tranh luận không ngừng trong triết học. Tại sao? Bởi vì triết học mang tính linh hoạt. Nhấc một hòn đá lên, bạn sẽ thấy nó – ẩn náu ở những nơi không ngờ tới, mang vô số hình thức.
Vậy việc chúng ta có nên phá bỏ Bức tường Berlin của triết học và để Đông và Tây cuối cùng hợp nhất hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc chúng ta nghĩ triết học là gì – và nó nhằm mục đích gì. Nếu nó không chỉ là một phát minh của người Hy Lạp mà, về cốt lõi, là tình yêu trí tuệ, thì nó lớn hơn nhiều so với nghệ thuật tranh luận tinh vi. Nó là mọi cách mà trí óc con người thức tỉnh trước chân lý. Và có lẽ, sâu thẳm bên trong, đó mới là nỗi sợ thực sự của các khoa triết học: tư tưởng phi phương Tây có thể không chỉ tham gia vào cuộc đối thoại – mà còn có thể thay đổi nó hoàn toàn.
Trong những năm gần đây, một phong trào triết học ngày càng phát triển – một lần nữa, tất cả đều từ phía Đông của bức tường – đã chán nản với trò chơi học thuật lịch sự về đối thoại giữa các nền văn hóa. Thay vì rón rén bước quanh bức tường chia cắt triết học, họ đã cầm lấy búa và bắt đầu đập nó xuống. Nhưng họ không chỉ đơn thuần phá bỏ rào cản; họ đang đặt câu hỏi liệu sự chia cắt đó có đáng tồn tại ngay từ đầu hay không. Liệu có thực sự tồn tại thứ gọi là triết học phương Đông hoặc phương Tây, hay đó chỉ là một huyền thoại tiện lợi?
Nhà sử học Peter K. J. Park lập luận rằng ý tưởng về triết học như một truyền thống tự trị, có nguồn gốc từ Hy Lạp là một phát minh tương đối mới và mang tính chính trị cao. Trong cuốn sách Châu Phi, Châu Á và Lịch sử triết học, (Africa, Asia, and the History of philosophy), ông chỉ ra rằng vào thế kỷ 18, hầu hết các học giả tin rằng triết học bắt đầu ở Ấn Độ hoặc Châu Phi – hoặc cả hai đã truyền nó cho Hy Lạp. Chỉ sau đó, với sự thao túng của Immanuel Kant và những người theo ông, lịch sử mới bị viết lại thành một câu chuyện thành công gọn gàng từ Hy Lạp đến Kant – đẩy tất cả các truyền thống khác vào danh mục tôn giáo.
Nếu câu chuyện Eurocentric của triết học có thể bị tháo gỡ với cùng một quyết tâm đã tạo ra nó, thì tương lai mà Jay Garfield và Bryan Van Norden hình dung có lẽ không còn xa. Họ tưởng tượng một thế giới nơi Khổng Tử đứng cạnh Kant trong mọi giáo trình, nơi sinh viên tranh luận về Bhagavad Gita nhiều như về Cộng hòa (The Republic) của Plato. Trong tương lai này, Người bay của Avicenna có thể vươn cao ngang với Bộ não trong bể của Putnam ( Putnam’s Brainin a Vat) – không phải như một di tích mờ nhạt, mà là một mảnh ghép quan trọng của bức tranh triết học.
Van Norden gọi đây là Triết học đa văn hóa, (multicultural philosophy), nhưng đây không chỉ là việc các nhà tư tưởng ném ý tưởng qua bức tường vì họ không thể gặp nhau ở cùng một không gian. Nó là việc tháo dỡ bức tường hoàn toàn – nhận ra rằng chân lý được tìm thấy tốt nhất thông qua một cuộc đối thoại toàn cầu giữa các truyền thống triết học vĩ đại trên thế giới.
Triết học phải đa dạng hóa hoặc diệt vong
Vậy, điều gì sẽ xảy ra khi triết học phi phương Tây không chỉ gõ cửa, mà còn mở toang cánh cổng của kinh điển phương Tây? Các truyền thống lâu nay bị bỏ quên – từ đối thoại Upaniṣad đến đạo đức học Khổng Tử – có thể phủi lớp bụi trên Descartes và Sartre, mang đến những hiểu biết sâu sắc về những câu hỏi mà triết học phương Tây đã vật lộn từ lâu.
Như Alasdair MacIntyre lập luận, bất kỳ cuộc truy tìm chân lý nào cũng đòi hỏi sự gặp gỡ với những quan điểm đối lập không thể dung hòa. Nhà triết học Mark Siderits gọi đây là triết học hợp nhất – một cách tiếp cận xuyên văn hóa, kết hợp những tinh hoa của các truyền thống toàn cầu để giải quyết những vấn đề sâu sắc. Có thể những phương pháp tiếp cận phân tích, chia nhỏ ý tưởng thành từng phần, và phương pháp tiếp cận tổng thể, nhìn nhận tổng thể trước khi đi vào chi tiết, không hề đối lập nhau – mà là hai mảnh ghép có thể giúp triết học vượt qua ranh giới cũ của nó.
Nếu chúng ta thôi khăng khăng rằng triết học luôn phải trông theo một khuôn mẫu nhất định và mở cánh cửa với sự khiêm tốn, chúng ta sẽ biến nó thành, như Costica Bradatan nói, một cuộc đối thoại phong phú hơn, tinh vi hơn và có ý nghĩa hơn.

- triet-hoc
- triet-hoc-tay-hoa
- khoa-hoc
- nhan-thuc
- tu-duy
- buc-tuong-berlin
- triet-hoc-phuong-dong
- triet-hoc-phuong-tay
- triet-hoc-duc
- immanuel-kant
- multicultural-philosophy