Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ | Chương 11
Cuộc săn lùng tàu tháng 10 Đỏ là tiểu thuyết tình báo của Tom Clancy (1984), được chuyển thể thành phim cùng tên năm 1990.
· 34 phút đọc.
Tàu USS Dallas.
Người đứng đầu bộ phận theo dõi âm thanh (Sonar) nhận ra người lính sonar cấp hai Ronald Jones vẫn đang ở trạng thái xuất thần như mọi khi. Chàng thanh niên bỏ đại học đang cúi gập người trên bàn làm việc, cơ thể mềm nhũn, mắt nhắm nghiền, khuôn mặt vẫn giữ vẻ mặt vô cảm như anh ta đang nghe một trong nhiều cuốn băng nhạc Bach trên chiếc máy phát nhạc đắt tiền. Jones là người phân loại các cuốn băng nhạc của mình theo mức độ sai sót, tiết tấu piano lạc điệu, tiếng sáo lạc điệu, tiếng kèn Pháp thô thiển. Anh vểnh tai để phân biệt tiếng ồn của biển. Trong thế giới hải quân, thủy thủ tàu ngầm thường bị coi là kỳ quặc, trong khi thủy thủ tàu ngầm lại coi mấy kẻ lắng nghe âm thanh (sonar) là kẻ kỳ quặc. Dù vậy đặc thù kỳ quặc này lại dễ được chấp nhận nhất trong quân đội. Thuyền phó thường kể một câu chuyện về một trưởng bộ phận sonar mà ông từng làm việc cùng 2 năm, người đã từng tuần tra trên cùng một vùng biển tại một tàu ngầm chứa tên lửa trong suốt sự nghiệp quân đội của mình. Ông ấy trở nên quen thuộc với từng chú cá voi lưng gù sống trong khu vực đến mức đặt tên riêng cho từng con. Sau khi nghỉ hưu, ông làm việc cho Viện Hải Dương Học Woods Hole, nơi tài năng của ông được mọi người cực kỳ trân trọng.
3 năm trước, Jones được yêu cầu thôi học ở Học Viện Công Nghệ California khi đang học giữa năm cuối. Mới đầu anh tưởng mình bị đẩy vào trò chơi khăm mà các sinh viên học viện này nổi tiếng, nhưng hóa ra không phải. Giờ thì anh đang phục vụ trong hải quân để lấy tiền trả học phí. Anh tuyên bố sẽ học đến tiến sĩ về điều khiển học và xử lý tín hiệu, và sau khi tốt nghiệp anh nhất định sẽ đến làm việc ở Viện Nghiên Cứu Hải Quân để bù đắp cho việc phải tạm ngừng học giữa chừng. Trung úy Thompson tin điều đó. Từ khi gia nhập Dallas 6 tháng trước, ông đã đọc hồ sơ của tất cả thủy thủ và chỉ số IQ của Jones là 158, cao nhất trong đám thủy thủ thuyền ông. Khuôn mặt trầm lặng và đôi mắt nâu buồn của cậu khiến phụ nữ rất khó cưỡng. Trên bãi biển, Jones từng hành đội thủy quân lục chiến cạn sức. Nhưng viên trung úy không quan tâm nhiều lắm, ông từng là thành viên đội bóng học viện hải quân Annapolis. Jones chỉ là một đứa trẻ gầy gò thích nghe nhạc Bach. Thật khó nhìn.
Tàu USS Dallas là một tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp 688, hiện chỉ còn cách đảo Iceland 40 dặm, ở đó có trạm tiếp xăng dầu với mã Toll Booth. Thuyền cập bến chậm hơn thời gian dự kiến 2 ngày. Một tuần trước, tàu đã tham gia cuộc tập trận của NATO mang tên NIFTY DOLPHIN (CÁ HEO XINH ĐẸP). Do thời tiết ở Bắc Đại Tây Dương trở nên tồi tệ nhất trong suốt 2 thập kỷ qua, nên các tàu nổi khác không thể ra khơi đúng lịch khiến cuộc tập trận bị hoãn vài ngày. Trong cuộc tập trận đó, Dallas cùng đội với tàu tuần dương HMS Swiftsure của Anh, đã lợi dụng thời tiết khắc nghiệt để xâm nhập và tiêu diệt đội hình mô phỏng của đối phương. Trung tá Bart Mancuso, một trong những thuyền trưởng tàu ngầm trẻ nhất trong hải quân Hoa Kỳ. Trước đó ông cùng với DALLAS đã tham gia các cuộc tập trận dưới bốn điều kiện thời tiết khác nhau. Sau nhiệm vụ, tàu được mời đến thăm căn cứ hải quân hoàng gia Anh nơi đóng tàu tuần dương Swiftsure ở Scotland và các thủy thủ Hoa Kỳ vẫn còn chưa tỉnh dậy sau cơn nôn nao của lễ kỷ niệm… thì nhận được một nhiệm vụ khác: Một diễn biến mới trong trò chơi tàu ngầm ở Đại Tây Dương.Tàu Dallas được lệnh tuần tra dọc theo Vành Đai Đỏ (Red Route One) trong 3 tuần.
Suốt 14 tháng qua, đội quân tàu ngầm mới của Liên Xô đang sử dụng một chiến lực kỳ lạ nhưng hiệu quả dưới nước để thoát khỏi những.
– cái đuôi. Hoa Kỳ và Anh. Tại biên giới Tây Nam của Iceland, các tàu ngầm Nga thường lặn xuống dưới đáy rặng núi Reykjanes Ridge nhô lên từ đáy đại dương Khoảng cách giữa các rặng núi dưới đáy biển thường là từ nửa dặm đến 5 dặm, hình lưỡi dao như những chặng núi Alps chổng ngược.Định của nó cách mặt biển Bắc Đại Tây Dương hơn ngàn feet. Trước những năm 60, các tàu ngầm chỉ có thể đến gần các đỉnh chứ không thể khám phá các khe núi hoặc khe nước khác nhau. Trong suốt những năm 70, các tàu khảo sát của hải quân Liên Xô đã thực hiện hàng nghìn cuộc tuần tra và khảo sát trong khu vực này vào mọi loại thời tiết, mọi mùa. Và rồi,14 tháng trước khi tàu DALLAS được lệnh tuần tra khu vực này, tàu ngầm USS Los Angeles đã liên tục theo dõi tàu ngầm tấn công lớp V – II của hải quân Liên Xô. Vào thời điểm đó, tàu ngầm lớp V đã đi vòng quanh bờ biển Ireland trong một tuần, sau đó lặn sâu xuống đỉnh sườn núi. Tàu Los Angeles phải đi theo. Tàu ngầm lớp V liên tục tiến với tốc độ 8 hải lý/giờ cho đến khi vượt qua khe giữa đỉnh đôi đầu tiên, được biết với cái tên không chính thức là Thor_s Twins. Và rồi nó đột ngột tăng tốc tối đa về phía tây nam. Thuyền trưởng Los Angeles đã cố hết sức để theo nhưng rồi vẫn bị trượt. Mặc dù tàu ngầm lớp 688 có vận tốc nhanh hơn cái tàu ngầm lớp V đó nhưng các tàu ngầm Nga cũng không kém cạnh gì – nó không hề giảm tốc độ trong suốt 15 giờ, điều đã được xác định chắc chắn sau đó.
Lúc đầu nó không tỏ vẻ gì nguy hiểm đến mức đó. Các tàu ngầm có hệ thống định vị quán tính chính xác cao và vị trị của nó có thể được xác định trong phạm vi vài trăm thước chỉ trong vài giây. Nhưng tàu ngầm V đó giống y đang trượt tuyết mà viên thuyền trưởng nhìn rất rõ đường đi, y như chiếc máy bay chiến đấu lặn sâu trong núi và thung lũng để tránh tên lửa đất đối không. Tàu Los Angeles không thể theo dõi được trong các.
– hẻm núi… Khi tốc độ lên đến 20 hải lý/ giờ thì sonar chủ động hay sonar thụ động hoặc thiết bị đo tiếng vang đều mất chức năng, coi như mù tịt. Sau đó, theo lời viên thuyền trưởng báo cáo sau này, cảnh tượng giống như lái chiếc ô tô bị sơn kín, chỉ dựa vào mỗi bản đồ và chiếc đồng hồ bấm giờ. Đấy là về lý thuyết còn có thể lái được, chứ viên thuyền trưởng nhanh chóng nhận ra hệ thống định vị quán tính có tri giá sai số ngẫu nhiên đến vài trăm yards. Do trọng lực, giá trị sai số càng lớn ảnh hưởng đến.
– độ thẳng đứng của máy. và ảnh hưởng trực tiếp đến định vị quán tính. Tệ hơn cả là tất cả các biểu đồ đều làm cho tàu nổi. Các vật thể dưới vài trăm mét nước đều được đánh dấu là chưa xác nhận – mà đúng là nó chả có giá trị với bất kỳ ai cho đến bây giờ. Khoảng cách giữa các núi nhanh chóng nhỏ hơn giá trị sai số điều hướng tích lũy – sớm hay muộn thì tàu ngầm của ông cũng sẽ đâm vào sườn núi nếu tiếp tục chạy lên vận tốc 30 hải lý. Trước tình hình đó, tàu Los Angeles không còn cách nào khác là phải quay lại và tàu V tẩu thoát.
Lúc đầu người ta đoán rằng Liên Xô bằng cách nào đó đã mở một tuyến đường dưới nước đặc biệt, rằng các tàu ngầm cuẩ họ có thể qua lại đây với tốc độ cao. Các thuyền trưởng Nga đều được biết đến là có thể thực hiện các pha điên rồ, và có lẽ họ tin tưởng vào sự kết hợp của hệ thống quán tính, la bàn từ trường và con quay hồi chuyển để di chuyển dọc theo tuyến đường cụ thể. Nhưng giả thuyết này không đứng vững được lâu. Vài tuần sau người ta phát hiện ra rằng tàu ngầm Liên Xô băng qua các rặng núi dưới đáy đại dương với tốc độ cao dọc theo nhiều tuyến đường. Nếu vậy thì điều duy nhất các tàu ngầm Mỹ và Anh có thể làm là đi một lúc rồi dừng lại, định vị nó bằng Sonar rồi mới đi tiếp để bắt kịp. Tuy nhiên, tốc độ của tàu ngầm Liên Xô có giảm đau, và các tàu ngầm lớp 688 và Trafalgar vẫn bị bỏ lại phía sau.
Tàu DALLAS đang ở trạm Toll Booth để giám sát các tàu ngầm Nga qua lại, bảo vệ lối vào của ĐƯỜNG DÂY LIÊN LẠC SỐ MỘT (RED ROUTE ONE) của hải quân Mỹ và tiến hành kiểm tra các bằng chứng ngoại vi để xem Liên Xô có bất kỳ thiết bị nào mới để cho phép các tàu ngầm của họ đi qua vách núi thoải mái như vậy. Cho đến khi người Mỹ sao chép được nó thì chỉ có 3 biện pháp dở tệ: Tiếp tục theo dõi nhưng vẫn bị mất dấu người Nga; bố trí tàu ngầm tấn công mạnh nhất vào lối ra của các tuyến đường; Hoặc thiết lập một hệ thống SOSUS hoàn toàn mới.
Jones lắng nghe hơn 10 phút – lâu hơn so với bình thường.Thông thường anh có thể tìm thấy mục tiêu trong thời gian ngắn. Anh chàng thủy thủ tựa lưng vào ghế và châm một điếu thuốc.
– Có thứ gì đó, đại úy Thompson.
– Nó là gì? Thompson dựa vào vách ngăn.
– Tôi không biết. Jones nhặt một cặp tai nghe khác à đưa cho chỉ huy.
– Ngài nghe đi.
Thompson đang chuẩn bị học thạc sĩ về kỹ thuật điện, anh là chuyên gia về thiết kế hệ thống sonar. Anh chăm chú lắng nghe, mắt nheo lại. Từ tai nghe nổi lên tiếng gầm ở tần số thấp – hoặc tiếng sột soạt. Anh không thể xác định được. Lắng nghe vài phút sau, anh tháo tai nghe và lắc đầu.
– Tôi đã lắng nghe âm thanh này từ nửa giờ trước. Jones nói. Anh đang đề cập đến hệ thống lắng nghe âm thanh sonar phu đa chức năng BQQ – 5. Thiết bị chính của nó là mái vòm đường kính 18 feet ở mũi tàu, có thể được sử dụng để phát hiện chiến đấu chủ động và bị động. Một phần mới của hệ thống là một loạt các cảm biến thụ động dài hơn 200 feet thả dọc hai thân tàu. Đây là một chất cơ học tương tự như các cơ quan cảm biến trên cơ thể của cá mập.
– Mục tiêu biến mất, mục tiêu xuất hiện lại, mất, rồi xuất hiện lại. Jones tiếp tục.
– đây không phải tiếng động của cánh quạt, cũng không phải là âm thanh của cá voi hay cá. Nó rất giống với tiếng nước biển chảy trong ống, ngoại trừ tiếng gầm rú thỉnh thoảng xuất hiện. Dù thế nào thì nó vẫn đang tiến về hướng 2 – 5 – 0, mục tiêu là giữa tàu chúng ta và Iceland, nó không còn cách quá xa.
– Hãy xem nó trông giống như thế nào? Có thể xuất hiện chút manh mối.
Jones tháo cáp 2 đầu nối ra khỏi móc và cắm một đầu và giắc cắm bảng sonar của mình, đầu còn lại cắm vào giắc cắm máy hiện sóng gần đó. Cả hai người mất vài phút để cô lập tín hiệu bằng một công tắc điều khiển sonar. Cuối cùng, một sóng hình sin không đều xuất hiện trên máy sóng, nhưng dạng sóng chỉ kéo dài vài giây mỗi lần.
– Bất thường. Thompson nói.
– Phải. thật kỳ lạ. Nghe có vẻ rất đều đặn nhưng lại không đều đặn. Ngài hiểu ý tôi không, Thompson?
– Không, tai tôi không tốt bằng tai cậu.
– Đó là do gu tôi nghe nhạc tốt hơn, thưa ngài. Thính giác thường bị phá hỏng bởi nhạc Rock.
Thompson biết cậu ta nói đúng nhưng người tốt nghiệp trường Annapolis như anh sao phải nghe lính nhập ngũ.
– Bước tiếp theo.
– Vâng thưa ngài. Jones rút phích cắm của máy hiện sóng và cắm nó vào bảng điều khiển bên cạnh thiết bị đầu cuối máy tính ở phía bên trái của bảng điều khiển nghe sonar.
Trong cuộc đại tu gần đây nhất, DALLAS đã được trang bị một thiết bị rất đặc biệt để phối hợp với hệ thống nghe âm thanh BQQ – 5, được gọi là BC – 10, nó là hệ thống máy tính mạnh nhất được lắp đặt trên tàu ngầm hiện nay. Mặc dù khối lượng của nó chỉ to bằng một chiếc bàn làm việc nhưng nó trị giá 5 triệu usd với tốc độ tính toán cao tới 80 triệu phép tính/ giây. BC – 10 có bộ chip 64 bit mới được phát triển, có thể sử dụng kiến trúc xử lý mới nhất. Bộ nhớ bong bóng từ tính của nó có thể dễ dàng đáp ứng nhu cầu tính toán của cả một đội tàu ngầm. Trong 5 năm tới, tất cả các tàu ngầm tấn công đều sẽ được trang bị một chiếc máy tính này. Vai trò của BC – 10 giống với hệ thống giám sát tiếng ồn SOSUS nhiều hơn, nó có nhiệm vụ phân tích và xử lý các tín hiệu sonar, loại bỏ tiếng ồn môi trường và các tiếng ồn biển xuất hiện tự nhiên khác phân loại tín hiệu, xác định tiếng ồn nhân tạo…Hệ thống BC – 10 chứa các đặc tính âm thanh của các con tàu khác nhau. Do đó, nó giống như xác định người dựa trên âm thanh và giọng nói, nó có thể xác định được loại tàu nào dựa trên các tiếng ồn khác nhau.
Phần mềm lập trình của nó cũng quan trọng như ổ cứng máy tính. 4 năm trước, một tiến sĩ địa lý làm việc tại Viện Nghiên Cứu Địa Cầu Caltech đã phát triển một chương trình máy tính gồm 600 ngàn bước để dự đoán động đất. Chương trình này giải quyết sự khác biệt giữa tiếng ồn ngẫu nhiên và tiếng ồn bất thường thực sự mà các nhà địa chất học rất khó phân biệt, từ đó báo trước một sự kiện động đất.
Bộ Quốc PHòng sử dụng chương trình này đầu tiên ở Bộ Tư Lệnh Ứng Dụng Kỹ Thuật của lực lượng không quân (Air Force Technical Applications Command (AFTAC) để giám sát các vụ thử hạt nhân trên quy mô toàn cầu theo HIệp Ước Hạn chế Vũ Khí Hạt Nhân. Hệ thống này được đánh giá là hoàn toàn phù hợp. Viện Nghiên Cứu Hải Quân (The Navy Research Laboratory) cũng thiết kế lại nó cho mục đích của riêng mình. Dù không phải để dự đoán động đất nhưng nó thực sự hoạt động rất tốt trong việc phân tích các tín hiệu sonar. Chương trình này được biết đến cái tên là HỆ THỐNG XỬ LÝ PHÂN ĐOẠN TÍN HIỆU trong hải quân (the signal algorithmic processing system (SAPS)).
Jones nhập các từ khóa.
– Đầu vào tín hiệu SAPS – SAPS SIGNAL INPUT. và trên màn hình hiển thị.
– SẴN SÀNG. BC – 10 phản ứng tức thì.
– CHẠY…
– ĐANG LÀM VIỆC.
Mặc dù tốc độ tính toán của BC – 10 nhanh một cách đáng kinh ngạc nhưng để chạy chương trình 600 ngàn bước cần có thời gian để loại bỏ các tín hiệu tự nhiên và nắm bắt các tín hiệu bất thường Hai mươi giây sau, so với máy tính thì đó là thời gian gần như vô tận, kết quả tính toán được hiển thị trên thiết bị màn hình. Jones bấm vào nút lệnh in ra kết quả tính toán.
– Hmph. Jones xé tờ giấy in.
– KẾT QUẢ CỦA NHẬN DẠNG TÍN HIỆU DỊ THƯỜNG LÀ NHIỄU DỊCH CHUYỂN DÒNG MAGMA. Cái kết quả SAPS này thật nực cười, giống như yêu cầu tôi uống 2 viên aspirin rồi đi ngủ và đánh thức tôi trước ca làm việc.
Thompson nhếch mép cười. Mặc cho những lời quảng cáo rầm rộ, nhiều người trong hạm đội không tiếp thu hệ thống mới này dễ dàng.
– Nhớ những gì tài liệu đề cập đến khi chúng ta ở Anh không? Người ta nói rằng có thể có một trận động đất ở Iceland, tương tự như tình huống hòn đảo này được nâng lên những năm 60.
Jones châm một điếu thuốc khác. Anh biết người thiết kế ban đầu của SAPS là ai. Một vấn đề là người này đã không xem xét kỹ lưỡng nhiều thứ, một trong những thiếu sót đó phân tích tín hiệu thường mắc sai lầm, nhưng bạn không thể chỉ nói suông là kết quả sai được. Đó là chưa kể, hệ thống này ban đầu chỉ được thiết kế để phát hiện ra động đất và Jones nghi ngờ rằng nó coi các tín hiệu bất thường là kết quả của động đất. Anh ghét mấy loại lỗi cố hữu này và Phòng Nghiên Cứu Hải Quân vẫn chưa loại bỏ hoàn toàn lỗi này. Vì vậy, sử dụng máy tính như một công cụ là một chuyện nhưng đừng để nó nghĩ thay bạn. Ngoài ra, thường xuyên xuất hiện những phát hiện mới về âm thanh trong biển mới chưa từng nghe thấy, điều này còn ít được phân loại hơn.
– Thưa ngài, tần số không bình thường – trong khi xung quanh không quá sâu. Tôi muốn sử dụng R – 15 để theo dõi tín hiệu này. Jones đang đề cập đến một cảm biến nghe âm thanh thụ động được đặt ở đuôi tàu DALLAS sẽ hoạt động ở tốc độ thấp.
Trung tá Mancuso bước vào, tay cầm một ly cà phê lớn như thường lệ. Nếu có điều gì gọi là đáng sợ ở thuyền trưởng thì có lẽ là khả năng anh ấy xuất hiện khi có bất kỳ chuyện gì xảy ra trên tàu, Thompson nghĩ, hay là anh ta cài bọ nghe lén khắp tàu nhỉ?
– Tôi chỉ đi vòng quanh thôi. Mancuso nói một cách thản nhiên.
– Có chuyện gì xảy ra trong một ngày tốt lành thế này?Viên thuyền trưởng đứng dựa vào vách ngăn. Anh không cao, chỉ khoảng 1.52m. trước đây anh luôn chú trọng đến giữ gìn vóc dáng nhưng do đồ ăn ngon trên tàu và lười vận động nên anh đã tăng cân. Đôi mắt đen của anh đầy những nét cười và bất cứ khi nào anh tìm cách trêu chọc những con tàu khác, các nếp nhăn khóe mắt hằn sâu hơn.
Giờ là ban ngày à? Thompson tự hỏi. Tàu được chia thành 3 ca trực, mỗi ca là 6 giờ. Lịch làm việc này thuận tiện hơn, ai cũng quen với lịch làm việc thuận tiện này nhưng sau vài ca làm việc là không nhớ gì đến ngày tháng. Lúc này bạn phải bấm nút trên đồng hồ để xem ngày tháng là gì. Nếu không sẽ xảy ra lỗi khi viết nhật ký.
– Thuyền trưởng, Jones phát hiện một tín hiệu lạ từ mạn thuyền. Máy tính nói là âm thanh dòng magma.
– và Jonesy không đồng ý với kết luận đó. Mancuso không phải là đưa ra câu hỏi.
– Không, thưa ngài. Thuyền trưởng, tôi không đồng ý. Tôi không biết âm thanh đó là gì nhưng chắc chắn đó không phải là âm thanh dòng chảy magma.
– Cậu lại không tin vào cái máy này à?
– Thuyền trưởng, SAPS hoạt động tốt trong hầu hết trường hợp, nhưng đôi khi nó THỰC SỰ không biết. Những lời ám chỉ của Jones khá mỉa mai đối với thời đại điện tử ngày nay.
– Bởi vì các tần số chỉ cần một thứ sai là tất cả đều sai.
– OK, vậy cậu nghĩ thế nào?
– Tôi không chắc, thuyền trưởng. Đó không phải là cánh quạt như tôi thường nghe thấy, nhưng cũng không phải tiếng ồn tự nhiên. Bên cạnh đó… Dù đã có 3 năm phục vụ trên tàu nhưng Jones vẫn cảm thấy rụt rè mỗi khi ngẫu nhiên phải nói chuyện với thuyền trưởng. Thủy thủ đoàn tàu DALLAS giống như một gia đình lớn, thậm chí là giống với gia đình kiểu cũ nơi miền biên cương, khi mọi người phải làm việc cực kỳ chăm chỉ. Thuyền trưởng giống như cha, thuyền phó giống như mẹ, các sĩ quan là con cả, các thủy thủ là con út. Tuy nhiên, ở trên tàu, thuyền trưởng sẽ lắng nghe những gì bạn muốn nói, đây là điều quan trọng nhất đối với Jones.
Mancuso trầm ngâm gật đầu.
– Được rồi, vậy tiếp tục đi. Không có ý nghĩa gì khi để phí phạm chiếc máy vô giá này.
Jones cười toe toét. Có lần anh đã đã nói với thuyền trưởng một cách chi tiết và chính xác cách anh có thể chuyển đổi thiết bị này thành dàn âm thanh nổi tốt nhất thế giới. Mancuso nghe xong chỉ ra nó chả phải kỳ công lớn gì, vì thiết bị nghe âm thanh trong phòng này trị giá tận 20 triệu usd rồi.
– Chúa ơi. Một kỹ thuật viên trẻ tuổi nhảy dựng trên ghế.
– Có ai đó vừa tăng tốc. Jones là chỉ huy phòng sonar. Hai thủy thủ khác nhận tín hiệu mới, Jones cắm đầu tai nghe vào giắc trong khi hai thủy thủ đứng dậy tránh ra. Anh lấy ra tập giấy note và ghi lại thời gian trước khi thực hiện việc nghe. BQR – 15 là thiết bị nghe âm thanh nhạy nhất trên tàu nhưng loại liên lạc này không cần thiết phải có độ nhạy cao như vậy.
– Chết tiệt. Jones lẩm bẩm.
– Tàu ngầm lớp C. thủy thủ trẻ báo cáo.
Jones lắc đầu.
– Lớp V. Chắc chắn là lớp V. Tốc độ 30 hải lý – tiếng ồn thật lớn. Nó giống như khoan một lỗ trong nước, chả quan tâm ai có theo dõi hay không. Hướng 0 – 5 – 0. Thuyền trưởng, chúng ta đang ở vùng biển tốt nhưng tín hiệu yếu. Con tàu này không gần chúng ta. Không gần có nghĩa là Jones dự đoán con tàu này cách khoảng 10 dặm. Anh tất bật quay lại với hệ thống điều khiển nghe âm thanh.
– Tôi nghĩ chúng ta biết con tàu này rồi. Tiếng ồn này tạo bởi độ cong các cánh quạt khi quay, nghe giống như một sợi xích quấn quanh nó.
– Bật nó trên loa. Mancuso nói với Thompson. Anh không muốn can thiệp vào hệ thống khi các kỹ thuật viên làm việc. Viên đại úy chuyển các tín hiệu này đến BC – 10.
Được lắp đặt trên vách là loa điện có độ nét cao, được bán với giá 4 chữ số ở bất kỳ cửa hàng bán thiết bị âm thanh nổi nào. Tất nhiên giống như mọi thiết bị khác trên tàu ngầm lớp 688, nó phải là đồ tốt nhất và đắt tiền nhất. Jones thực hiện các công tác điều khiển âm thanh, họ nghe thấy tiếng động kêu ken két của các cánh quạt, đôi khi cả tiếng kêu của cánh quạt cong và đôi khi là tiếng ồn của hệ thống máy chạy hạt nhân của tàu ngầm lớp V khi chạy hết công suất. điều tiếp theo Mancuso nghe thấy là máy in.
– Tàu lớp V – số 6. Thompson thông báo.
– Đúng vậy. Jones gật đầu.
– Tàu V – 6, vẫn là 0 – 5 – 0. Anh cắm micro vào tai nghe.
– Chỉ huy, sonar đây, báo cáo chúng ta có một mục tiêu. Tàu ngầm Liên Xô lớp V, số hiệu 0 – 5 – 0, tốc độ dự kiến 30 hải lý/giờ. Mancuso bước tới lối đi và nói với đại úy Pat Mannion, sỹ quan phụ trách boong tàu.
– Pat, điều người tới phòng kiểm soát hỏa lực.
– Vâng thưa thuyền trưởng.
– Đợi một phút! Jones giơ tay lên.
– Còn một cái nữa. anh loay hoay xoay cái nút.
– Một tàu loại C, chết tiệt nếu nó không phát tiếng như đào hố thế này, dễ phát hiện hơn. Số hiệu 0 – 7 – 3, tốc độ 28 hải lý/ giờ. Chúng ta biết tàu này. Phải, tàu lớp C – II, số 11. Jones tháo tai nghe ra và nhìn Mancuso.
– Thuyền trưởng, mấy tên Nga hôm nay có lịch tổ chức giải đua tàu ngầm dưới nước không?
– Họ không thông báo cho tôi. Tất nhiên rồi. Chúng ta chả có tờ báo thể thao nào ở đây cả. Mancuso cười, khuấy ly cà phê trong cốc, suy nghĩ thực sự của anh không lộ ra nét mặt. Mẹ kiếp, mấy gã này định làm gì thế nhỉ?
– Tôi sẽ đi trước và xem xét. Làm tốt lắm chàng trai.
Anh bước vài bước về phía trước trong tư thế tấn công.Nhân sự từng vị trí chiến đấu đã được sắp xếp sẵn sàng. Mannion phụ trách chỉ huy, cùng với một sỹ quan boong trẻ và 7 thủy thủ. Một binh sĩ điều khiển hỏa lực hạng nhất đang nhập các dữ liệu từ thiết bị phân tích chuyển động mục tiêu vào máy tính điều khiển hỏa lực Mark 117. Một sĩ quan khác đang nhập các lệnh điều khiển để phụ trách theo dõi, Mọi thứ không có gì bất thường ở đây cả. Các thủy thủ làm nhiệm vụ đã vào trạng thái cảnh giác cao độ, nhưng bên ngoài họ không hề lo lắng vì họ đã qua đào tạo và có kinh nghiệm nhiều năm. Trong các cuộc diễn tập quân sự, các binh chủng khác thường đóng giả đồng minh hoặc đối thủ – mô phỏng các chiến thuật của Khối phía Đông, thì hải quân cho tàu ngầm thực sự di chuyển dưới nước – và liên tục. vì vậy, đối với thủy thủ tàu ngầm, huấn luyện hay tập trận cũng không khác gì thực chiến.
– Vậy là chúng ta có bạn. Mannion nói.
– Không gần lắm. đại úy Charles Goodman lưu ý.
– Vị trí của đối phương không hề thay đổi.
– Chỉ huy, sonar đây. Đó là giọng Jones. Manuso nhấc máy.
– Chỉ huy đây. Chuyện gì vậy Jonesy?
– Vừa tìm thấy thêm 1 chiếc khác, thưa ngài. Tàu lớp A – 3, số hiệu 0 – 5 – 5 chạy với tốc độ tối đa. Âm thanh cứ như động đất ấy, nhưng yếu, thưa ngài.
– Lớp A – 3? Bạn cũ của chúng ta, Politovskiy. Đã lâu không gặp. Còn chuyện gì không?
– Một suy đoán, thưa ngài. Cái âm thanh rung lên một lần, sau đó im bặt, giống như nó đang rẽ. Tôi nghĩ nó đang hướng về phía này – âm thanh rất nhỏ. Và chúng ta có vài tiếng ồn hơn ở phía đông bắc. Do âm thanh quá hỗn tạp nên tạm thời chưa thể phân biệt được ngay. Chúng tôi đang theo dõi tiếp.
– Được rồi, làm tốt lắm, Jonesy. Cứ theo dõi và báo cáo.
– Vâng thuyền trưởng. Mancuso mỉm cười khi đặt điện thoại xuống, nhìn Mannion.
– Pat, cậu biết không, đôi khi tôi tự hỏi có phải cậu nhóc Jonesy này có phép thuật không.
Mannion đang nhìn vào bản đồ mà Goodman đã đánh dấu để sao lưu quy trình nhắm mục tiêu trên máy tính.
– cậu ta khá tốt. Vấn đề là cậu ấy nghĩ chúng ta đang làm việc cho cậu ta.
– Giờ thì chúng ta đang làm việc cho cậu ta thật. Jones là tai mắt của họ và Mancuso hài lòng với một cấp dưới như vậy.
– Chuck ? Mancuso hỏi đại úy Goodman.
– 3 số hiệu tàu vẫn giữ nguyên hướng di chuyển, thưa ngài. điều đó cho thấy họ có thể vẫn đang hướng tới DALLAS. Nó cũng có nghĩa là họ không thể có dữ liệu phạm vi cần thiết để kiểm soát hỏa lực. Mặc dù không ai muốn nổ súng thực sự nhưng đây là quả là lúc xem xét thành quả diễn tập…
– Pat, chúng ta di chuyển một chút. Tiến về phía tây 10 dặm. Mancuso đưa ra lệnh lệnh như thường khi. Có hai lý do cho điều này. Thứ nhất, thiết lập đường cơ sở để tính toán khoảng cách mục tiêu. Thứ hai, điều kiện âm thanh ở vùng nước sâu sẽ tốt hơn, để nghe được âm thanh ở khoảng cách xa hơn. Viên thuyền trưởng nghiên cứu biểu đồ trong khi hoa tiêu đưa ra các mệnh lệnh cần thiết, đánh giá tình hình chiến thuật.
Bartolomeo Mancuso là con trai của một thợ cắt tóc có cửa tiệm ở Cicero, Illinois. Vào mỗi mùa thu cha ông đều đóng cửa tiệm để đi săn hươu ở bán đảo Peninsula, vùng thượng bang Michigan. Bart thường đi với cha mình. Con nai đầu tiên ông săn được là vào năm 12 tuổi và từ đó đến khi được nhận vào Học viện Hải Quân, mỗi năm anh đều đi săn. Mặc dù không thể đi săn sau khi vào trường, nhưng anh không hề cảm thấy hối hận, vì sau khi trở thành sỹ quan tàu ngầm hạt nhân, anh đã học được nhiều hơn để chuyển hướng trò chơi, giờ anh đi săn người.
Hai giờ sau, chuông báo động bằng sóng vô tuyến ELF trong các phòng liên lạc của tàu ngầm vang lên. Giống như các tàu ngầm hạt nhân khác, DALLAS cũng được trang bị một ăng ten kéo dài để thu tín hiệu vô tuyến tần số rất thấp truyền từ trung tâm Hoa Kỳ. chiều rộng của dải dữ liệu kênh rất hẹp và lượng thông tin truyền đi bị hạn chế, không giống như các kênh truyền hình, có thể truyền hàng ngàn bit dữ liệu với tốc độ 30 khung hình/ giây, dữ liệu truyền qua sóng ELF rất chậm, chứ khoảng 30 giây mới truyền được một ký tự đi. Nhân viên trực điện đài chờ đợi kiên nhẫn trong khi thông tin được ghi lại vào băng. Sau khi tin nhắn kết thúc, anh ta chạy lại băng ở tốc độ cao và ghi chép lại tin, chuyển nó qua nhân viên liên lạc, người đang đợi với cuốn sổ mã hóa trên tay.
Loại tín hiệu này không thực sự là một mật mã nhưng giống như một thuật toán – One – time – pad. (OTP.
– mật mã dùng một lần) Một cuốn sổ mã, thay thế 6 tháng một lần và được gửi đến mọi tàu ngầm hạt nhân, sẽ đưa đến cách thức giải mã. Các ký hiệu 3 chữ cái được chọn trước trên sổ mã. Để giải thích được ý nghĩa của nó, bạn phải theo dõi trên một cuốn sổ khác. 3 phút sau, văn bản được dịch và gửi đến thuyền trưởng ở trung tâm tác chiến tức thì.
NHG JPR YTR FROM COMSUBLANT TO LANTSUBS AT SEA STANDBY OPY TBD QEQ GER POSSIBLE MAJOR REDEPLOYMENT ORDER LARGE – SCALE MAL ASF NME UNEXPECTED REDFLEET OPERATION IN PROGRESS TYQ ORV NATURE UNKNOWN NEXT ELF MESSAGE HWZ COMMUNICATE SSIX COMSUBLANT.
Chỉ huy lực lượng tàu ngầm đại tây dương.
– sếp lớn của Mancuso, Phó đô đốc Vincent Gallery. Lão tướng đang chuẩn bị chỉnh đốn lại lực lượng, rõ ràng không phải là chuyện nhỏ. Lần tới sẽ gửi tín hiệu AAA – tất nhiên sẽ được mã hóa – gửi báo động đến từng tàu để đi đến độ sâu của kính tiềm vọng, và nhận hướng dẫn chi tiết từ hệ thống trao đổi thông tin vệ tinh của tàu ngầm SSIX. Hệ thống này là một vệ tinh liên lạc không đồng bộ địa lý, chỉ dành cho tàu ngầm.
Mặc dù không thể đánh giá thêm tác động chiến lược, nhưng thế trận chiến thuật trở nên rõ ràng hơn. Việc di chuyển 10 dặm về phía đông đã cung cấp cho họ phạm vi đầy đủ cho 3 tàu ban đầu phát hiện và 1 chiếc lớp A khac đang lao tới trong vài phút nữa. Chiếc đầu tiên trong số các tàu được phát hiện.
– V6 đã nằm trong tầm bắn ngư lôi. Mark 48 đã khóa được nó và không có cách nào thuyền trưởng V6 biết được DALLAS đang ở đây. V – 6 chỉ là con nai trong tầm ngắm của anh – nhưng giờ lại không phải mùa săn.
Dù DALLAS không nhanh hơn nhiều so với tàu ngầm lớp V và C của Liên Xô và vẫn chậm hơn khoảng 10 hải lý/giờ so với tàu ngầm lớp A nhỏ hơn, nhưng nó và các tàu ngầm cùng loại vẫn có thể chuyển động nhẹ nhàng với tốc độ gần 20 hải lý/giờ. Đây là một thắng lợi lớn của các kỹ sư và thiết kế tàu ngầm sau nhiều thập kỷ nghiên cứu và phát triển. Tuy nhiên, chỉ khi theo dõi và phát hiện mục tiêu cùng lúc, nó mới bí mật tiếp cận được đối phương. Tuy nhiên, sonar thường mất tác dụng khi bắt đầu tăng tốc. Với tốc độ 20 hải lý/ giờ, hệ thống BQQ – 5 trên DALLAS chỉ hoạt động được 20% công suất, cách xa so với hiệu suất lý tưởng. Khi tàu ngầm chạy tốc độ cao từ điểm này đến điểm khác, nó sẽ bị.
– mù. và khó có thể phát hiện mục tiêu. Vì vậy, phương thức tác chiến của tàu ngầm tấn công rất giống với bộ binh. Chiến đấu bộ binh đòi hỏi sự kết hợp giữa tấn công và bọc lót, với tàu ngầm, đó là sự kết hợp giữa tốc độ tối đa và sự trôi dạt. Sau khi tiếp cận được mục tiêu, tàu ngầm phải nắm lấy vị trí và chờ cơ hội, sau khi chiếm lấy vị trí phóng, tàu ngầm lập tức lao về phía trước và phóng ngư lôi. Lúc này, tàu mục tiêu cũng có thể đang di chuyển. Và nếu tàu ngầm có thể dành được vị trí trước nó thì nó chỉ việc ung dung nằm im chờ đợi tấn công như một con mèo săn vĩ đại phản công.
Thủy thủ đoàn tàu ngầm không chỉ phải có kỹ năng tốt mà phải có cả bản năng, và nhạy cảm cảm người nghệ sĩ; sự tự tin đối khi mang tính độc tài và cả tinh thần xông pha của một võ sĩ quyền anh chuyên nghiệp. Mancuso có tất cả những đức tính này. Anh đã dành tâm thuyết học hỏi trong suốt 15 năm, được nhiều thuyền trưởng kỳ cựu hướng dẫn và lắng nghe rất kỹ các ý kiến tại các diễn đàn thảo luận khác nhau, nơi anh cũng bày tỏ quan điểm của mình và thu được rất nhiều lợi ích. Trong thời gian trên bờ, anh tham gia nhiều khóa đào tạo mô phỏng máy tính khác nhau, tham gia hội thảo, thảo luận với đồng nghiệp và trao đổi kinh nghiệm. Trên tàu nổi và máy bay chống tàu ngầm, anh đã học được cách – kẻ thù – chính là những thủy thủ trên mặt biển – sử dụng chiến thuật của họ để săn lùng tàu ngầm.
Thủy thủ tàu ngầm sống theo một phương châm đơn giản: Trên đời chỉ có hai loại tàu: Tàu ngầm và… tàu mục tiêu. Mục tiêu của DALLAS là gì? Mancuso tự hỏi. Các tàu ngầm Nga? À nếu trường hợp này xảy ra và người Nga cứ chạy vòng quanh thế này, thì vấn đề đơn giản. Anh và tàu Swiftsure đã là đội phối hợp tốt nhất trong cuộc tập trận của NATO, khiến các chuyên gia chống tàu ngầm của NATO bất lực. Tàu và đội ngũ thủy thủ của anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và Jones là người vận hành sonar giỏi nhất trong hạm đội. Mancuso luôn sẵn sàng, bất kể trò chơi là gì. Cũng giống như ngày mở đầu của mùa săn,Mancuso mải mê tìm con mồi. Bản thân anh cũng trở thành vũ khí.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 01 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 02 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 03 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 04 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 05 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 06 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 07 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 08 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 09 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 10 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 11 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 12 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 13 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 14 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 15 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 16 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 17 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 18 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 19 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 20 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 21 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 22 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 23 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 24 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 25 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 26 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 27 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 28 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 29 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 30 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 31 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 32 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 33 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, toàn tập tại đây.