Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ | Chương 19
Cuộc săn lùng tàu tháng 10 Đỏ là tiểu thuyết tình báo của Tom Clancy (1984), được chuyển thể thành phim cùng tên năm 1990.
· 27 phút đọc.
Trên tàu Tháng mười đỏ.
Viên thuyền phó của Tháng mười đỏ thu thập keo phóng xạ để đo lượng bức xạ hạt nhân hai ngày một lần. Đây là một phần kiểm tra bán chính thức. Sau khi tận mắt nhìn thấy mọi đôi giày của thủy thủ đoàn đều được làm sáng bóng, mọi chiếc giường đều được dọn đúng cách và mọi ngăn để chân đều được sắp xếp gọn gàng theo quy định, viên sĩ quan sẽ lấy lại những chiếc phù hiệu được 2 ngày tuổi và trao cho các thủy thủ chiếc mới, đồng thời cũng giáo dục thủy thủ để họ luôn trở thành Lính liên xô thế hệ mới. Borodin luôn thực hiện nghiêm túc quy định này, và hôm nay, như thường lệ, anh dành hai giờ đồng hồ đi bộ qua các cabin. Sau khi các huy hiệu cũ được thu lại, gói bên hông trái của anh đầy những huy hiệu cũ, còn bên hông phải thì trống rỗng. Anh mang những chiếc huy hiệu cũ đến bệnh xá.
– Đồng chí Petrov, tôi có quà cho anh này. Borodin đặt chiếc túi lên bàn viên bác sĩ.
– Được rồi. viên bác sĩ tươi cười chào hỏi.
– những thanh niên này không có bệnh tật gì và tôi chả có việc gì làm ngoài việc đọc tạp chí.
Borodin rời khỏi bệnh xá. Đầu tiên viên bác sĩ sẽ sắp xếp các huy hiệu theo thứ tự. Trên mỗi huy hiệu có đánh dấu ba chữ số, chữ số đầu tiên cho biết số thứ tự, nếu phát hiện có phóng xạ hạt nhân thì thuận tiện cho việc dò tìm thời gian. Số thứ 2 là vị trí chiến đấu của thủy thủ và chữ số ba là số cabin nơi thủy thủ ngủ. Hệ thống này tiện lợi hơn cách quản lý cũ trước đây, khi mỗi thủy thủ có số hiệu riêng.
Quy trình làm việc như công thức nấu ăn, Huy hiệu được làm bằng phim. Petrov có thể làm việc mà không cần suy nghĩ. Đầu tiên anh tắt đèn trần và bật đèn đỏ. Sau đó khóa cửa, sau đó hạ giá đỡ từ vách ngăn, mở hộp nhựa và chuyển hợp phím vào ngăn chứa.
Petrov bước vào phòng thí nghiệm được kết nối với giá đỡ chứa phim và treo nó lên móc của tủ Anh lấy 3 cái bồn vuông lớn đựng đầy dung dịch hóa chất. Mặc dù là một bác sĩ có năng lực nhưng kiến thức về hóa học vô cơ của anh cũng bị quên ít nhiều và anh thậm chí còn không nhớ được hóa chất đang phát triển là gì. Nhãn số 1 được đổ vào chậu số 1, nhãn số 2 được đổ vào chậu số 2, chậu số 3, anh nhớ là đổ đầy nước. Petrov không việc gì phải vội. Còn hơn hai tiếng nữa mới đến bữa trưa và nhiệm vụ của anh rất nhàm chán. Anh chủ yếu đọc sách y khoa về bệnh nhiệt đới trong 2 ngày qua. Như mọi người, viên bác sĩ cũng mong được đến thăm Cuba. Nếu may mắn có thủy thủ nào đó mắc bệnh không rõ nguyên nhân thì công việc của anh sẽ thú vị nhiều hơn.
Petrov đặt bộ đếm thời gian trong phòng thí nghiệm là 75 giây, sau đó nhúng phim vào bồn thứ nhất và nhấn nút khởi động bộ hẹn giờ cùng lúc. Dưới ánh đèn đỏ, anh vừa nhìn bộ đếm giờ vừa suy nghĩ, tự hỏi người Cuba có sản xuất rượu rum không. Anh từng đến đó vài năm trước và cực kỳ thích hương vị của loại rượu này. Cũng như những người Liên Xô khác, tuy anh thích uống rượu vodka nhưng đôi khi muốn đổi khẩu vị.
Bộ đếm giờ dừng lại, anh nhanh chóng nhấc hộp phim lên, cẩn thẩn lắc vài lần trong chậu. Không dính hóa chất – bạc Nitrat? Có gì đó giống thế – trên đồng phục. Anh nhúng vào vào chậu thứ hai và đặt lại thời gian. Thật tiếc thì mệnh lệnh đặt ra là bí mật – nếu không anh có thể mang bộ quân phục nhiệt đới. Anh sẽ trông như một con heo đổ mồ hôi dưới cái nóng Cuba cho mà xem. Tất nhiên, chắc chẳng ai trong số những dân cư man rợ Cuba quan tâm tắm rửa đâu. Họ sẽ họ có tiến bộ văn minh hơn tý trong 15 năm qua. Để rồi xem.
Bộ đếm giờ dừng lại, Petrov nhấc hộp phim lên khỏi bồn thứ hai, lắc nó cẩn thận và đặt nó vào bồn thứ 3 bằng nước sạch. Một công việc khó chịu khác được hoàn thành. Tại sao không có một thủy thủ nào ngã thang và bị gãy cái gì đó nhỉ? Anh muốn tìm một bệnh nhân để thử máy X quang của Đông Đức. Anh không tin vào người Đức, dù họ có theo chủ nghĩa Marx hay không, nhưng họ tạo ra các thiết bị y tế thực sự tốt như máy X quang, máy tiệt trùng cao áp và hầu hết các loại thuốc anh sử dụng đều rất tốt. Đến lúc rồi. Petrov lấy hộp phim ra khỏi bồn thứ 3, treo nó lên bảng giải đoán tia X, rồi bật đèn lên…
– Không sao rồi! Petrov thở sâu. Anh phải nghĩ. Huy hiệu bị mờ. Số huy hiệu là 3 – 4 – 8, dãy huy hiệu thứ ba, vị trí 54 (bệnh xá, nhà bếp) và cabin phía sau (cabin sĩ quan).
Dù chỉ rộng 2cm nhưng độ nhạy của huy hiệu khá cao. Có 10 cột để xác định lượng mức độ tiếp xúc. Petrov nhận thấy rằng cái huy hiệu này bị mờ đến cột thứ 4, các thủy thủ phòng máy bị mờ đến cột thứ 5, các thủy thủ phụ trách ngư lôi luôn làm việc ở mũi tàu thì chỉ bị mờ ở cột số 1.
– Khốn nạn thật. Anh biết rất rõ mức độ ô nhiễm nhưng vẫn cầm sách hướng dẫn lên và kiểm tra May mắn là các cột được biểu thị bằng logarit, độ phơi sáng của anh ta chỉ là 12 rads, thủy thủ phòng máy từ 12 đến 25 rads. Trong hai ngày ngày thì độ phơi nhiễm này không đủ nguy hiểm, không thực sự đe dọa tính mạng, nhưng… Petrov quay lại văn phòng và cẩn thận để phim trong phòng thí nghiệm. Anh nhấc điện thoại.
– Thuyền trưởng Ramius? Petrov đây. Anh có thể để đến bệnh xá được không?
– Tôi đến đây, đồng chí bác sĩ. Ramius luôn tiết kiệm thời gian. Ông biết cuộc gọi là về việc gì. Một ngày trước khi ra lời, khi Petrov lên bờ lấy thuốc dự phòng, Borodin đã làm ô nhiễm huy hiệu bằng máy X quang.
– Có chuyện gì vậy Petrov? Ramius đóng cửa phía sau lưng.
– đồng chí thuyền trưởng, chúng ta có một vụ rò rỉ phóng xạ hạt nhân trên tàu.
– Vớ vẩn, Nếu có thì thiết bị của chúng ta sẽ phát hiện tức thì.
Petroc lấy cuộn phim từ phòng thí nghiệm ra và đưa cho thuyền trưởng.
– anh xem đi.
Ramius cẩn thận kiểm tra ánh sáng từ trên xuống dưới. Ông cau mày.
– Còn có ai khác biết về chuyện này không?
– chỉ tôi và anh, đồng chí thuyền trưởng.
– Đừng nói với ai nữa – không một ai. Ramius ngừng lại.
– Có thể có bất cứ lỗi nào trong quá trình kiểm tra không – có thể là có gì đó sai lầm hoặc cậu mắc lỗi trong quá trình rửa phim.
Petrov lắc đầu quầy quậy.
– Không thưa đồng chí thuyền trưởng. Chỉ có anh, đồng chí Borodin và tôi tiếp xúc với cái này. Ông biết rồi đấy, tôi kiểm tra ngẫu nhiên mỗi lô 3 ngày trước khi ra khơi. Giống như mọi người, Petrov không dám nói sự thật, anh chỉ lấy mẫu ở để trên cùng mỗi hộp khi chúng được cất vào. Nó hoàn toàn không phải cuộc kiểm tra ngẫu nhiên.
– Số lượng tiếp xúc cho cái này như tôi nhìn ở đây là… 10 đến 20? Ramius nhấn giọng.
– số huy hiệu của ai?
– Bulganin và Sur Zpoi. Những thủy thủ phóng ngư lôi làm ở đầu tàu đền dưới 3 rads.
– Rất tốt. đồng chí bác sĩ, những gì chúng ta có ở đây là khả năng thấp nhất – thấp nhất, Petrov – rò rỉ từ một lò phản ứng hạt nhân, nhiều nhất là rò rỉ hơi nước Đã có tiền lệ cho loại rò rỉ này trước đây và không ai chết cả. Việc rò rỉ này sẽ được tìm và sửa chữa ngay. Chúng ta cũng sẽ giữ bí mật nhỏ này, tránh khiến cho mọi người bất an.
Petrov gật đầu đồng ý. Anh biết rằng có người đã chết vào năm 1970 trong một vụ tai nạn ở tàu ngầm Voroshilov, vụ rò rỉ ở tàu phá băng Lenin còn khiến nhiều người chết hơn. Nhưng cả hai vụ tai nạn đều diễn ra từ lâu lắm rồi và anh chắc Ramius có thể xử lý được nó, phải không nhỉ?
Lầu Năm Góc.
Đường kính ngoài cùng và lớn nhất của Lầu Năm Góc tòa nhà E ring. Qua những ô cửa sổ, bạn có thể ngắm nhìn khung cảnh bên ngoài, vượt qua khoảng sân không ánh nắng mặt trời. Đây là nơi làm việc của các sĩ quan quốc phòng cao cấp nhất nước Mỹ. Một trong số đó là văn phòng J – 3, cục trưởng cục tác chiến của Bộ tham mưu liên quân. Nhưng lúc này ông không có mặt ở trong phòng mà ở dưới tầng hầm. Bức tường của tầng hầm làm bằng kim loại, trên tường được lắp đặt nhiều máy phát tiếng ồn để che chắn, gây nhiễu cho các thiết bị nghe lén điện tử. Do đó, tầng hầm này thường được gọi là BỂ CHỨA (TANK).
Ông đã ở đây 24 giờ qua nhưng chẳng ai biết chuyện đó nếu chỉ nhìn vẻ ngoài của ông. Chiếc quần tây xanh của ông vẫn còn nếp, áo sơ mi kaki vẫn còn vết là sau khi giặt, cổ áo sơ mi vẫn gập rõ nét. Ông đeo một chiếc cà vạt được ghim vàng của thủy quân lục chiến Dù trung tướng Edwin Harris không phải nhà ngoại giao, cũng không tốt nghiệp học viện quân sự nhưng ông luôn đóng vai người trung gian (peacemaker), vị trí kỳ lạ trong thủy quân lục chiến.
– Chết tiệt! đây là giọng của đô đốc Blackburn thuộc CINGLANT (chỉ huy hạm đội Đại Tây Dương). Sỹ quan chỉ huy chiến đấu của ông, thiếu tướng Pete Stanford cũng có mặt.
– Có cách nào để điều hành nhiệm vụ này không? Tất cả các thành viên của Bộ Tham Mưu Liên Quân đều có mặt nhưng không ai trong số họ nghĩ là làm được.
– Coi nào, Blackie, tôi đã cho anh biết lệnh đến từ đâu. Tướng Hilton, Chủ tịch hội đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, nói với giọng mệt mỏi.
– Tôi biết, thưa đại tướng, nhưng về cơ bản đây là một cuộc chiến tranh tàu ngầm, phải không? Tôi phải để Vince Gallery tham gia vào việc này và anh cũng cần phải giao cho Sam Dodge phụ trách việc kết thúc Dan và tôi đều đã từng lái máy bay chiến đấu, Pete là chuyên gia chống tàu ngầm và chúng ta vẫn cần một chuyên gia lái tàu ngầm tham gia nữa.
– Thưa các ngài. Harris bình tĩnh.
– những gì chúng ta sẽ trình tổng thống bây giờ là kế hoạch tác chiến để đối phó với mối đe dọa từ Liên Xô Chúng ta có thể đặt vấn đề Tháng mười đỏ sang bên một lúc được không?
– Tôi đồng ý. Stanford gật đầu.
– Chúng ta có đủ thứ để lo bây giờ rồi.
8 vị tướng bước tới bàn bản đồ. 58 tàu ngầm Liên Xô, 28 tàu nổi cùng một nhóm tàu chở dầu và tàu tiếp liệu đang tiến tới bờ biển Hoa Kỳ. Trước mối đe dọa này Hải quân Mỹ chỉ có 1 tàu bay duy nhất. tàu INVINCIBLE không được tính vào. Có vẻ như mối đe dọa là nghiêm trọng. Hạm đội Liên Xô mang hơn 300 tên lửa hành trình đối hạm Mặc dù đây là tên lửa đối hạm nhưng 1/3 trong số chúng có đầu đạn hạn nhân, đủ sức phá hủy các thành phố ở bờ đông nước Mỹ. Nếu được phóng ở bên ngoài biển New Jersey thì tầm bắn sẽ từ Norfolk đến Boston.
– Josh Painter đề nghị triển khai KENNEDY gần bờ. đô đốc Blackburn nói.
– Ông ấy muốn sử dụng tàu sân bay đó để tiến hành chống ngầm, chuyển phi đội máy bay tấn công hạng nhẹ trên tàu sân bay vào bờ và thay thế bằng máy bay chống ngầm S – 3 Ông ấy cũng muốn INVINCIBLE đến sườn bên ngoài của họ.
– Tôi nghĩ không khả thi. Tướng Harris nói. Pete Stanford cũng không đồng ý Họ đã đồng ý trước đây là để J3 khởi động kế hoạch đối phó.
– Các quý ngài, nếu chúng ta chỉ có một tàu sân bay để sử dụng, thì chết tiệt chúng ta phải có một tàu sân bay, chứ không phải một giàn chống ngầm siêu lớn.
– Chúng tôi đang nghe đây, Eddi. Hilton nói.
– Hãy chuyển KENNEDY đến đây. ông chuyển miếng gỗ đánh dấu đến vị trí phía tây Azores.
– Josh vẫn giữ phi đội tấn công của mình. Chúng ta sẽ chuyển INVINCIBLE đến tuyến ven biển để chịu trách nhiệm tác chiến chống ngầm, vì người Anh đã thiết kế INVINCIBLE để thực hiện nhiệm vụ kiểu này, đúng không? Họ rất giỏi trong lĩnh vực này. KENNEDY là một vũ khí tấn công. Nhiệm vụ của nó là đe dọa kẻ thù. Ok, Nếu chúng ta bố trí theo cách này, nó sẽ tạo đe dọa cho tàu Liên Xô. Ở khu vực này, nó có thể chống lực lượng mặt đất của họ từ bên ngoài chu vi tên lửa đất đối đất.
– Tốt hơn nữa. Stanford xen vào, chỉ vào một số tàu trên bản đồ.
– tốt nhất là đe dọa những lượng lượng này. Nếu mất tàu chở dầu, họ sẽ không thể quay về nhà. Để bảo vệ các tàu tiếp tế hậu cần, họ sẽ phải bố trí lại lực lượng. Lúc đầu họ sẽ phải điều tàu sân bay KIEV ra khơi để đối phó với mối đe dọa từ tàu KENNEDY và cung cấp dịch vụ dịch vụ yểm trợ cho tàu của họ. Chúng ta có thể điều động S – 3 từ trên bờ và chúng vẫn có thể tuần tra ở khu vực biển này. Ông vẽ một đường khoảng 500 dặm quanh bờ biển.
– nhưng một mình chiếc INVINCIBLE thì lực lược quá mỏng. Đô đốc Foster của CNO lưu ý.
– Josh đang yêu cầu vài chiếc E – 3 đến yểm trợ cho người Anh. Blackburn nhìn Tham Mưu Trưởng Không Quân, tướng Claire Barnes.
– Chúng tôi sẽ hỗ trợ họ mạnh mẽ nhất. Barnes nói.
– Sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ điêu vài chiếc Sentry đến với INVINCIBLE. Nếu quyết định chuyển nó vào chiến đấu gần bờ thì chúng tôi có thể hỗ trợ cả ngày và đêm. Nếu cần, tôi sẽ triển khai cả máy bay chiến đấu F – 16.
– Điều kiện của anh là gì, Max? Foster hỏi. Không ai gọi ông ấy là Claire.
– Theo như tôi thấy thì anh có cánh không quân của tàu SARATOGA đang không phải làm gì cả. OK, vào thứ bảy tôi sẽ triển khai 500 máy bay chiến thuật giữa Dover và Loring. Các chàng trai của tôi không quen với tác chiến chống hạm và phải đào tạo gấp, tôi muốn anh cử người đến hỗ trợ huấn luyện và tôi cũng muốn mấy chiếc Tomcats của anh. tôi thích tác chiến hỗn hợp tiêm kích – tên lửa. Hãy chuyển một phi đội chịu trách nhiệm các cuộc tuần tra trên không ở ngoại vi Iceland và các lực lượng không quân khác được triển khai ở ngoại vi New England để đối phó với máy bay ném bom Tu – 20 Bear của mấy tên Ivan. Ngoài ra, nếu anh nghĩ là cần thiết, tôi có thể cử vài tàu chở dầu đến Lajes để đảm bảo cung cấp nhiên liệu kịp thời cho mấy con chim bay của KENNEDY.
– Blackie? Foster hỏi.
– Đồng ý. Blackburn gật đầu.
– điều duy nhất tôi lo lắng là khả năng tác chiến chống ngầm của INVINCIBLE chỉ sợ không đủ mạnh.
– Vậy chúng ta tăng cường. Stanford nói.
– Đô đốc, sẽ thế nào nếu chúng ta chuyển tàu tấn công đổ bộ Tawara từ Little Creek và đưa nó vào nhóm tác chiến New Jersey? Nhóm tác chiến này có 12 trực thăng chống ngầm (ASW) và 7 hoặc 8 con Harrier.
– Ý kiến hay. Harris nói nhanh.
– Vậy chúng ta có 2 hàng không mẫu hạm hạng nhẹ với lực lượng tấn công đáng kể trước lực lượng Liên Xô. KENNEDY là con hổ rình mồi ở phía đông hạm đội đối phương và hàng trăm máy bay chiến đấu ở phía tây, hình thành cuộc tấn công trên 3 mặt trận. Bằng cách này, khả năng tuần tra chống ngầm của chúng ta sẽ được cải thiện .
– Liệu KENNEDY có thể chiến đấu một mình ngoài đó được không? Hilton hỏi.
– Tùy thuộc tình hình. Blackburn trả lời.
– Chúng ta có thể tiêu diệt bất kỳ kẻ thù nào, có lẽ hai trong 4 nhóm này trong một giờ. Nhóm ở bờ biển sẽ là công việc của anh, Max.
– 2 người đã tập bao lâu cho vở kịch này? Tướng Maxwell, tư lệnh thủy quân lục chiến, hỏi bộ trưởng quốc phòng. Mọi người đều cười.
Tháng mười đỏ.
Trước khi bắt đầu kiểm tra rò rỉ hạt nhân, Kỹ sư trưởng Melekhin đã làm sạch khoang lò phản ứng. Ramius và Petrov cũng đang ở đây, cùng với sỹ quan trực và một trung úy trẻ tuổi Shadow. Ba sỹ quan cầm máy đo bức xạ Geiger.
Khoang lò phản ứng hạt nhân rất lớn, được bao quanh bằng lớp vỏ lò bằng thép trụ khổng lồ. Dù nó không có nguyên tố phóng xạ nhưng ta vẫn còn cảm nhận được nhiệt độ khi sờ vào nó. Tất cả các góc của căn phòng này đều được lắp máy dò bức xạ tự động, và khu vực quanh của mỗi máy được bao phủ bởi các vật thể màu đỏ. Nhiều thiết bị đo được treo trên các vách ngăn phía trước và phía sau. Trên tàu ngầm, không có khoang nào sạch bằng khoang lò phản ứng. Mặt cầu và vách ngăn đều là thép tấm sơn trắng, lý do rất rõ ràng: Nếu có rò rỉ nhẹ sẽ quan sát được ngay dung dịch làm mát lò phản ứng. Vì vậy, ngay cả khi tất cả các thiết bị đo bị hỏng thì sự cố vẫn được phát hiện kịp thời.
Shadow trèo lên một thang cuốn bằng nhôm xung quanh lò phản ứng, lấy đầu dò từ ống phản xạ hạt nhân ra và đo trên từng mối hàn của ống. Anh vặn âm lượng loa trên hộp cầm tay ở mức tối đa để mọi người trong khoang có thể nghe, Shadow cũng cắm một cặp tay nghe song song để kiểm tra rõ thêm. Chàng trai 21 tuổi trông có vẻ lo lắng. Chỉ có kẻ ngốc mới nghĩ rằng rò rỉ phóng xạ hạt nhân là an toàn. Có một câu chuyện cười vẫn được lưu truyền trong hải quân Liên Xô: Làm thế nào để biết đây là một thủy thủ của Hạm đội Biển Bắc?
– Anh ta tỏa sáng trong bóng tối. Trên bờ ai cũng cười khi nghe chuyện này, nhưng giờ thì là chuyện sinh tử. Anh biết tại sao mình được giao nhiệm vụ đo đạc này, vì anh là người trẻ nhất, ít kinh nghiệm nhất và là sĩ quan ít giá trị nhất. Anh đang cố kiểm soát đầu gối sao không run lên, đồng thời mở rộng đầu dò xung quanh đường ống lò phản ứng.
Máy đo mức xạ không hoàn toàn yên lặng, dạ dày của Shadow thắt lại khi các phân tử không đều đi qua ống khí bị ion hóa sẽ phát ra tiếng kêu lách cách. Cứ sau vài giây anh lại nhìn vào chỉ số trên mặt đồng hồ đo mật độ. Vỏ kín của lò phản ứng hạt nhân là một thiết bị hình tròn bốn lớp, mỗi lớp được cấu tạo từ thép không gỉ cứng dài vài cm. Không gian bên trong của ba lớp chứa đầy hỗn hợp barium – nước, được ngăn cách bởi các tấm chì, rồi phủ bằng lớp vật liệu polyethylene. Tất cả các biện pháp này đều nhằm ngăn chặn sự rò rỉ neutron và phân thử gama. Việc sử dụng hỗn hợp thép, barium, chì, polyethylene và các vật liệu khác để ngăn chặn sự rò rỉ của nguyên tố có hại trong lò phản ứng. theo số đo trên máy đo, chỉ có vài độ nhiệt thoát ra, bức xạ này nhỏ hơn nhiều so với bức xạ trên bờ biển Sochi và nằm trong phạm vi cho phép. Số đọc cao nhất vẫn ở dưới đèn báo. Điều này khiến viên trung úy trẻ mỉm cười.
– Tất cả các kết quả đo đều bình thường, thưa các đồng chí. Svyadov báo cáo.
– Kiểm tra lại lần nữa. Melekhin ra lệnh.
– Bắt đầu lại từ đầu.
Nhiệt độ trong khoang cao, và phía trên còn nóng hơn nên 20 phút sau Shadow bắt đầu đổ mồ hôi nhưng vẫn đưa ra một báo cáo ý hệt.
– Làm một điếu thuốc đi. Ramius đề nghị.
– Làm tốt lắm Shadow.
– Cảm ơn đồng chí thuyền trưởng. Trên đó nóng do nhiệt tỏa ra từ ống mát và đèn. viên trung úy đưa máy đo cho Melekhin. Giá trị rò rỉ phát hiện tích lũy được chỉ ra trên thang đo thấp hơn nhiều giá trị an toàn cho phép.
– Có lẽ một số huy hiệu đã bị nhiễm độc hạt nhân. Kỹ sư trưởng không vui nói.
– Đây cũng không phải lần đầu tiên xảy ra chuyện này. Có thể ai đó trong nhà máy hoặc bộ phận cung ứng của xưởng đóng tàu đang làm trò đùa và nên bị GRU (cục tình báo quân đội) điều tra. Trò đùa như vậy xứng đang bị xử bắn.
– Có lẽ vậy. Ramius cười thầm.
– còn nhớ vụ tai nạn của tàu phá băng Lenin không? Ông đang đề cập đến vụ tai nạn của tàu phá băng chạy bằng năng lượng hạt nhân. Sau sự cố rò rỉ hạt nhân nó phải nằm cảng 2 năm.
– Một đầu bếp nấu ăn trên tàu thấy nồi đầy cặn bẩn, muốn rửa nó nhưng không sạch, rồi một tên điên kỹ sư đã đề nghị anh ta rửa nó bằng hơi nước trực tiếp. Thằng ngốc đó đã chạy đến máy tạo hơi nước và mở van giám sát, rồi đặt cái nồi bẩn phía dưới.
Melekhin đảo tròn mắt.
– Tôi nhớ. Lúc đó tôi vẫn còn là nhân viên kỹ thuật. Viên thuyền trưởng đã cần một đầu bếp người Kazakh…
– Ông ấy thích ăn thịt ngựa với cháo. Ramius nói.
– …và con lừa ngu ngốc đó không biết các quy định trên tàu. Kết quả không chỉ giết chính bản thân mình mà còn kéo theo 3 người nữa. Các cabin trên tàu bị ô nhiễm nặng suốt 20 tháng. Viên thuyền trưởng vừa ra khỏi trại tập trung vào năm ngoái.
– Tôi cá tên đầu bếp đã rửa sạch chảo. Ramius bình luận.
– Chắc chắn, thưa đồng chí Marko Aleksandrovich, cái chảo đó còn sạch thêm 50 năm nữa. Melekhin cười vui vẻ.
Petrov nghĩ rằng mấy cái này không nên được thảo luận trước mặt sỹ quan trẻ. Tai nạn lò phản ứng hạt nhân có gì vui? Nhưng ai cũng biết là Melekhin có khiếu hài hước và viên bác sĩ nghỉ việc 20 năm phải làm việc với lò phản ứng hạt nhân đã khiến họ nhìn những nguy hiểm tiềm tàng này đầy hình tượng. Chà, ít nhất thì bài học tàu Lenin cho chúng ta biết: Không cho phép một ai không liên quan đến lò phản ứng hạt nhân được phép đến gần.
– Rất tốt. Melekhin nói.
– Giờ chúng ta hãy đến phòng máy phát điện để kiểm tra các đường ống. Svyadov, chúng tôi vẫn còn cần cậu đấy.
Khoang phía sau được trang bị bộ trao đổi nhiệt/ máy tạo hơi nước, tổ máy phát tuabin và các thiết bị phụ trợ. Turbin chính được lắp đặt trong khoang kế tiếp và hiện nó không hoạt động vì nó không thể hoạt động đồng thời với hệ thống đẩy caterpillar. Trong mọi trường hợp, hơi nước được sử dụng cho caterpillar phải sạch. Nếu có bức xạ, nó chỉ có thể xảy ra trong vòng lặp bên trong. Chất làm mát lò phản ứng có chứa các nguyên tố phóng xạ có tuổi thọ ngắn nhưng vô cùng nguy hiểm. Các phân tử này sẽ hoàn toàn không được chuyển hóa thành hơi nước. Tất cả đều xảy ra ở mạch ngoài và được tạo ra bằng cách đun sôi nước sạch. Sau khi hai loại nước gặp nhau, chúng không thể trộn lẫn trong bộ trao đổi nhiệt, rất có thể chất làm mát bị rò rỉ qua các phụ kiện và van.
Phải mất 50 phút để kiểm tra các đường ống phức tạp này. Độ kín hơi của đường ống ở khoang này không tốt bằng khoang trước. Svyadov suýt bị bỏng hai lần, và mặt anh đẫm mồ hôi khi ngay kiểm tra khoang đầu tiên.
– Các số đo đều trong giới hạn an toàn, thưa các đồng chí.
– tốt .Melekhin nói.
– cậu xuống nghỉ ngơi một lát rồi kiểm tra lại.
Shadow thực sự biết ơn kỹ sư trưởng vì điều này nhưng không phù hợp nói thẳng. Là một sĩ quan trẻ tận tụy và là thành viên của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản (Komsomol), không có nỗ lực nào là đủ. Anh thận trọng trèo xuống và Melekhin đưa cho anh một điếu thuốc khác. Kỹ sư trưởng tóc hoa râm có tấm lòng nhân hậu, đặc biệt chăm sóc cấp dưới.
– Cảm ơn đồng chí. Svyadov.
Petrov mang theo một chiếc ghế xếp.
– Đây ngồi đi, đồng chí trung úy, hãy để đôi chân cậu nghỉ ngơi một lát.
Viên trung úy vội vàng ngồi xuống, duỗi chuân để đầu gối đỡ mỏi. Các sĩ quan ở VUMUP đã từng nói với anh rằng anh rất may mắn khi được chỉ định làm việc trên tàu này. Ramius và Melekhin là những người hướng dẫn giỏi nhất trong hạm đội và tất cả thủy thủ đều đánh giá cao lòng tốt và năng lực của họ.
– Đáng nhẽ họ nên cách nhiệt những đường ống này. Ramius nói.
Melekhin lắc đầu.
– Kiểm tra không tiện. ông đưa máy đo bức xạ hạt nhân cho thuyền trưởng.
– Hoàn toàn an toàn. Ramius nhìn vào số tích lũy.
– Làm việc trong vườn có khi còn bị bức xạ nhiều hơn.
– Đúng thế. Melekhin nói.
– Khí radon được giải phóng trong mỏ than khiến thợ mỏ sẽ tiếp xúc bức xạ nhiều hơn chúng ta. Những chiếc huy hiệu đểu, chắc chắn là thế rồi. Sao cậu không kiểm tra tất cả?
– Tôi sẽ, thưa đồng chí. Petrov trả lời.
– Nhưng chúng ta sẽ đi biển trong thời gian dài, nếu chúng ta kiểm tra tất cả thì sẽ không đủ huy hiệu dùng trong vài ngày. Tôi sợ như vậy thì trái quy định.
– Cậu nói đúng. Trong mọi trường hợp thì huy hiệu chỉ một phần bổ xung cho công cụ phát hiện bức xạ. Ramius chỉ vào máy dò bên trong tấm vách ngăn màu đỏ nói.
– Anh có thực sự muốn kiểm tra lại các đường ống không? Melekhin hỏi.
– Tôi nghĩ chúng ta nên kiểm tra lại lần nữa. Ramius trả lời. Svyadove nhìn xuống boong tàu, thầm rủa bản thân xui xẻo.
– An toàn là trên hết. Petrov đọc lại quy định.
– tôi xin lỗi, trung úy… Thực ra viên bác sỹ chả thấy lỗi lầm gì. Anh ta đã rất lo lắng nhưng giờ thì bình tâm lại rồi.
Một giờ sau, cuộc kiểm tra đã hoàn tất. Petrov dẫn Shadow đến cabin ở mũi thuyền và bảo anh ta uống viên muối cùng trà để giúp cơ thể phục hồi. Sau khi các sỹ quan rời đi, Melekhin ra lệnh khởi động lại lò phản ứng.
Các thủy thủ quay lại vị trí làm việc và nhìn nhau. Các sỹ quan chỉ huy vừa kiểm tra khoang nhiệt độ cao của hơi nước nóng. này bằng máy dò bức xạ. Trước đó là một thủy thủy trông yếu đi trông thấy nhưng anh này không nói gì. Phần lớn thủy thủ đều chạm vào huy hiệu của họ, nhìn vào đồng hồ và tính toán xem còn bao lâu thì thay ca.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 01 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 02 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 03 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 04 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 05 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 06 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 07 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 08 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 09 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 10 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 11 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 12 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 13 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 14 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 15 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 16 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 17 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 18 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 19 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 20 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 21 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 22 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 23 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 24 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 25 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 26 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 27 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 28 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 29 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 30 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 31 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 32 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 33 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, toàn tập tại đây.