Lịch sử thành lập nhà nước Israel và xung đột với người Palestine

Nhà nước Israel được thành lập dựa trên cơ chế nào và nếu có thì những người có trách nhiệm đã lên kế hoạch đối phó với những người vốn đã sống ở mảnh đất đó như thế nào?

 · 41 phút đọc.

Nhà nước Israel được thành lập dựa trên cơ chế nào và nếu có thì những người có trách nhiệm đã lên kế hoạch đối phó với những người vốn đã sống ở mảnh đất đó như thế nào?

Nhà nước Israel được thành lập dựa trên cơ chế nào và nếu có thì những người có trách nhiệm đã lên kế hoạch đối phó với những người vốn đã sống ở mảnh đất đó như thế nào? Trong con mắt của công chúng thì việc thành lập nhà nước trông như thế nào? Những người chịu trách nhiệm có ngạc nhiên khi xung đột nổ ra không?

Mở đầu

TL;DR: Israel được thành lập bởi sự chấp thuận của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và một cuộc chiến tranh. Kế hoạch đối phó với những người sống trên mảnh đất đó bao gồm một phần thì trục xuất, một phần thì liên quan tới quyền công dân/thiết quân luật. Sự thành lập ấy nhuốm đẫm máu và đầy bạo lực và là nơi nổ ra một cuộc chiến tranh tổng lực. Những người có trách nhiệm và những người nắm quyền không bất ngờ khi xung đột nổ ra, dẫu cho có lẽ họ có thấy ngạc nhiên về quy mô của cuộc xung đột.

Câu hỏi về một nhà nước Do Thái đã được đặt ra từ khá lâu. Trong nhiều thế kỷ, không có cái gọi là nhà nước mà người Do Thái có thể gọi là nhà nước của riêng họ. Tuy nhiên, vào cuối những năm 1800 đã có một phong trào bắt đầu nổ ra, kêu gọi thành lập một nhà nước Do Thái. Người nổi bật nhất trong số những người lãnh đạo phong trào này là Theodore Herzl, thường được coi là cha đẻ của Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (tên của phong trào) và Israel (mặc dù ông đã qua đời hàng thập kỷ trước khi phong trào này được thành lập).

Vì vậy, không cần phải dài dòng nữa, đây là một số thông tin dẫn đến sự hình thành của Israel!

Cuối những năm 1800, đầu những năm 1900 – Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái nổ ra

Herzl là một người rất ủng hộ nhà nước Do Thái và có nhiều kế hoạch về việc thành lập nhà nước này. Kế hoạch của ông liên quan đến việc thành lập một nhà nước có thể là nơi trú ẩn an toàn cho người Do Thái và ông đã sử dụng sự phổ biến của chủ nghĩa bài Do Thái để làm lợi thế cho mình, kích thích đông đảo người Do Thái tham gia và sử dụng nó làm lý do cho sự cần thiết của nhà nước nói trên. Trên thực tế, Herzl đã viết vào năm 1895 rằng ông hy vọng được nói chuyện với Hoàng đế Đức (German Kaiser) và nhận được sự đồng thuận của ngài với những nỗ lực của ông ta, bởi vì ông tin rằng Hoàng đế sẽ rất vui khi loại bỏ được những gì mà ngài coi là những người không thể tấn công được.

Điều này là chính xác, và Hoàng đế cuối cùng cũng đã đồng ý hỗ trợ đầy đủ cho Herzl. Ngay cả bây giờ, Herzl cũng đã lên kế hoạch đặt nhà nước Do Thái ở khu vực được gọi là Palestine. Phần biên giới chưa được lên kế hoạch, các cường quốc và người Ottoman sẽ phải chấp thuận nó, nhưng Herzl nghĩ rằng tất cả đều có thể thực hiện được và đã làm việc chăm chỉ. Thay mặt Herzl, Hoàng đế Đức đã nói chuyện với Sultan (Ottoman), và viết thư cho Herzl/gặp ông ấy vào năm 1898 về việc rằng ngài ấy tin rằng Sultan sẽ xem xét lời khuyên của mình một cách thuận lợi. Tuy nhiên, người ta không biết được cuộc họp đã diễn ra như thế nào, ngoài ra Sultan có vẻ như không hứng thú với ý tưởng này và đã từ chối nó.

Đến năm 1902, khi đã mất hết hy vọng đàm phán với người Ottoman, Herzl quay sang người Anh. Ông ta hy vọng có được một chỗ đứng nào đó ở Bán đảo Sinai, ở Đảo Síp hoặc ở el – Arish. Joseph Chamberlain cho rằng những ý tưởng về Bán đảo Sinai và el – Arish là hợp lý, nhưng đã bị chính phủ Ai Cập/Ottoman ngăn cản, những người vẫn duy trì một số chủ quyền đối với khu vực này. Sau đó, họ đề nghị Herzl một cao nguyên ở Châu Phi gần Nairobi, nhưng những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái không hài lòng với lời đề nghị này. Tuy nhiên, việc người Anh nhận ra phong trào này và đưa ra bất kỳ lời đề nghị nào là cực kỳ quan trọng, và Herzl biết điều đó. Điều này sẽ chứng tỏ tầm quan trọng trong thời gian tới.

Herzl ủng hộ việc cứ thế mà thuộc địa hóa một khu vực và không bận tâm đến ý tưởng thanh lọc sắc tộc bất cứ ai ở đó. Đây là một vết nhơ trong hồ sơ của ông ta, một vết nhơ hầu như không được đề cập đến, nhưng ông ta đã viết trong nhật ký của mình rằng ông ta nghĩ rằng cần thiết phải loại bỏ bất kỳ ai khác ở đó.

Hậu Thế chiến I – Chủ nghĩa phục quốc Do Thái đạt được với Anh

Tua nhanh một chút, do cái chết của Herzl vào năm 1904 và do không có bất kỳ tiến bộ lớn nào cho đến Thế chiến thứ nhất. Trong Thế chiến I, người Anh đã nỗ lực lật đổ Sultan. Họ khuyến khích Tộc trưởng của Thành phố Mecca thực hiện một cuộc đảo chính và giành lấy vương quốc cho chính mình. Tuy nhiên, những thư từ này không chỉ có vậy. Để tham khảo thì chúng được gọi là Thư tín McMahon – Hussein.

Ý tưởng ở đây là để khu vực này (rộng lớn hơn nhiều so với khu vực Palestine/ Israel ngày nay) trở thành một quốc gia Ả Rập, độc lập, với sự hỗ trợ của người Anh. Người Anh đã giao trách nhiệm giành độc lập cho người Ả Rập bằng cuộc nổi dậy (xảy ra vào năm 1916), nhưng cuối cùng họ và người Pháp mới là người đảm nhận vai trò người bảo vệ. Về cơ bản, những người bảo vệ sẽ ngăn chặn người Thổ Nhĩ Kỳ tấn công khu vực và cố gắng giành lại nó sau khi Thế chiến I kết thúc.

Tuy nhiên, trước khi Thế chiến I kết thúc, Hiệu ước Sykes – Picot đã được ký kết giữa Anh và Pháp, trong đó nêu rõ chi tiết việc này sẽ diễn ra như thế nào. Hussein lo sợ rằng người Thổ Nhĩ Kỳ sẽ truy đuổi ông ta sau chiến tranh, trong khi đó người Anh cảm thấy rằng họ đã hứa sẽ giúp người Ả Rập độc lập khỏi người Thổ Nhĩ Kỳ, chứ không nhất thiết phải độc lập hoàn toàn. Những gì thực sự đã được hứa hẹn vẫn còn được tranh luận sôi nổi cho đến ngày nay. Các cuộc đàm phán về những vấn đề như biên giới của quốc gia Ả Rập mới này đã bị trì hoãn và bị phớt lờ, nhưng cuối cùng vẫn được xem xét. Cuối cùng, việc công nhận nền độc lập của …các khu vực được chỉ định dưới vĩ độ 37° là điều kiện phải có một cuộc nổi dậy của người Ả Rập.

Tuy nhiên, cuộc nổi dậy của người Ả Rập không như những gì McMahon mong đợi. Nó thất bại và thu hẹp lại với quy mô nhỏ hơn nhiều so với kế hoạch ban đầu do thiếu sự đoàn kết và kế hoạch của người Ả Rập. Sự thất bại này càng trở nên kỳ lạ hơn bởi thực tế là đột nhiên Hussein mới là người yêu cầu hỗ trợ quân sự, trong khi lẽ ra ông ta được cho là đang hỗ trợ chống lại chính người Ottoman, và điều này càng khiến người Anh phẫn nộ hơn.

Vào tháng 6 năm 1918, Declaration of the Seven (Tạm dịch: Tuyên bố Bảy bên) được đưa ra nhằm tuyên bố rằng bất kỳ vùng lãnh thổ nào bị người Ả Rập chinh phục sẽ vẫn là của Ả Rập. Tuy nhiên, số lượng quân đội Ả Rập vẫn không tăng lên lớn hơn so với mức họ đã có để chống lại quân Ottoman, và nước Anh (và các thuộc địa mà họ có, đặc biệt là Ấn Độ) đã tự mình lật đổ quân Ottoman.

Sau chiến tranh, mọi chuyện càng trở nên khó khăn hơn. Với Hiệp ước Sykes – Picot phân định phạm vi ảnh hưởng đã được thỏa thuận (một cách bí mật) giữa Pháp và Anh trong khu vực (hiệp ước được thực hiện vào năm 1916, phần lớn là các Thư tín hậu McMahon), người Ả Rập cảm thấy họ không đạt được kết thúc của thỏa thuận. Biên giới đột nhiên trở thành một vấn đề. McMahon nói rằng ông ta đang đề cập đến việc các khu vực phía tây Syria sẽ trở nên độc lập, trong khi người Ả Rập tin rằng Palestine sẽ được đưa vào khu vực được công nhận là một quốc gia Ả Rập độc lập. Điều này tiếp tục trong nhiều thập kỷ, trở thành một vấn đề được tranh luận.

Tuyên bố Balfour được đưa ra vào năm 1917 mơ hồ đến mức dường như đã dẫn đến xung đột nhiều hơn nữa trong khu vực, vì người ta tin rằng nhiều lời hứa của người Anh đã bắt đầu trở nên mâu thuẫn với nhau.

Người Anh rất có thể cũng sử dụng những lời hứa này để đạt được sự trợ giúp trong Thế chiến thứ nhất. Điều này rõ ràng hơn trong trường hợp của người Ả Rập, nhưng sự ủng hộ của người Do Thái trong Thế chiến I cũng là điều mà người Anh dường như muốn củng cố, và người Do Thái đã ủng hộ rất nhiều cho nỗ lực chiến tranh. Không rõ bao nhiêu trong số này là do Tuyên bố Balfour gây ra.

Vậy là, chúng ta đã có Tuyên bố Balfour. Vậy thì nó là gì? Chà, vào năm 1917, một lá thư của Bộ trưởng Ngoại giao Balfour gửi cho Lord Walter Rothschild đã cam kết một số điều sau:

– Người Anh ủng hộ ý tưởng thành lập một quê hương quốc gia (National Home) cho người Do Thái ở Palestine.

– Người Anh sẽ nỗ lực hết sức có thể bằng nguồn lực của mình để thực hiện điều đó.

– Người Anh sẽ không ủng hộ việc phân biệt đối xử với những người không phải Do Thái ở Palestine hoặc chống lại người Do Thái ở các quốc gia khác.

Như bạn có thể tưởng tượng, điều này đã vấp phải sự chán ghét to lớn của người Ả Rập. Họ không chỉ coi đây là việc khuyến khích người Do Thái di cư đến Palestine mà còn coi đó là hành vi vi phạm lời hứa mà người Anh đã đưa ra: trao Palestine cho họ. Về phần mình, người Anh tin rằng đây là một cách tuyệt vời để loại bỏ những người Do Thái mà họ không thực sự ưa thích, đặc biệt là những người chạy trốn khỏi Cách mạng Nga năm 1917.

Điều đáng bàn ở đây là người Anh đã đến Hội Quốc Liên vào năm 1922 để chính thức hóa quyền kiểm soát khu vực này của họ. Họ đã được trao quyền và điều này đã chính thức hóa quyền kiểm soát của họ, đó là lý do tại sao nó thường được gọi là Quyền ủy trị của Anh. Nó được ấn định sẽ hết hạn vào ngày 14 tháng 5 năm 1948.

Người Ả Rập rất không hài lòng. Trên thực tế, họ đã không hài lòng đến mức đã nổi loạn vào năm 1920. Và nổi loạn một lần nữa vào năm 1929 (cuộc bạo loạn này được gọi là Cuộc bạo loạn ở Bức tường Than khóc). Trong cả hai trường hợp, sự gia tăng nhập cư của người Do Thái, việc mua đất của những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, áp lực kinh tế (như nạn châu chấu và dịch bệnh gia súc) và chính sách tương đối thân thiện của chính phủ Ủy trị (về cơ bản là của người Anh) đã hình thành nên bối cảnh cho các cuộc bạo loạn.

Đặc biệt vào năm 1929, các cuộc bạo loạn đã trực tiếp bùng phát bởi cuộc tranh giành quyền kiểm soát Bức tường Than khóc và Núi Đền, nơi mà cả người Do Thái và người Hồi giáo đều tin là thiêng liêng. Người Do Thái tổ chức các cuộc biểu tình thách thức sự kiểm soát của người Hồi giáo đối với các địa điểm, trong khi người Hồi giáo tổ chức các cuộc phản đối lại. Bạo lực bùng phát nhiều lần trong suốt một tuần và lan tới tận Jaffa, Hebron và Haifa.

Những năm 1930 – Sự nhập cư, Kế hoạch phân vùng và Cuộc nổi dậy

Ngay cả như vậy thì lượng người nhập cư vẫn tăng lên mà không có gì được giải quyết. Người Anh bắt đầu cảm thấy lo sợ, chứng kiến ​​tình trạng bất ổn gia tăng cũng như lượng người nhập cư gia tăng trong khoảng thời gian 1933 – 1936 đã đẩy căng thẳng lên cao nữa và thúc đẩy lời đáp trả từ Anh. Năm 1935 đặc biệt nổi bật vì nhiều người Do Thái đã rời khỏi Đức trong bối cảnh cuộc đàn áp của Đức Quốc xã ngày càng gia tăng. Bất chấp một số hạn chế về nhập cư, nhập cư bất hợp pháp vẫn tồn tại ở mức không đổi (hoặc nhanh hơn), dẫn đến việc người Anh chỉ chấp thuận 1/3 hạn ngạch được yêu cầu cho người Do Thái nhập cư vào năm 1936.

Vào tháng 4 năm 1936, người Palestine phát động một cuộc nổi dậy trên toàn quốc chống lại sự cai trị của Anh ở Lãnh thổ Uỷ trị Palestine và chính sách chính thức hỗ trợ người Do Thái nhập cư vào Palestine. Đã có có lệnh ngừng bắn từ tháng 10 năm 1936 đến tháng 9 năm 1937, nhưng bạo lực đã lên đến đỉnh điểm vào năm 1938 trước khi lắng xuống trước cuộc chiến đang đến gần ở châu Âu. Các thành phố liên tục đổi chủ và người Anh phải điên cuồng tiếp tế/tăng cường quân đội trong khu vực để đối phó với mức độ nghiêm trọng của cuộc nổi dậy. Vì tình hình ban đầu rất nghiêm trọng và có ít quân trong khu vực nên người Anh hy vọng sẽ xoa dịu người Ả Rập trong thời gian ngừng bắn.

Cuối năm 1936, Ủy ban Peel (còn được gọi là Ủy ban Hoàng gia Palestine thuộc Anh) được thành lập để cố gắng giải quyết các vấn đề đang leo thang. Nó được giao nhiệm vụ điều tra lý do tại sao cuộc nổi dậy bắt đầu và xác định tương lai của lãnh thổ. Ủy ban Peel cuối cùng đã công bố báo cáo của mình vào ngày 8 tháng 7 năm 1937. Báo cáo đề xuất việc phân chia Palestine thành hai quốc gia riêng biệt, một quốc gia Ả Rập và một quốc gia Do Thái. Họ đề xuất thực hiện điều này bằng cách di chuyển khoảng 250.000 người Ả Rập và khoảng 1.500 người Do Thái đến các khu vực tương ứng của họ. Sẽ có một Vương quốc Ả Rập với khoảng 900.000 người và một nhà nước Do Thái với khoảng 400.000 người.

Nó đề xuất nền độc lập hoàn toàn cho cả hai quốc gia, rằng người Do Thái sẽ phải trả một số tiền bồi thường cho người Ả Rập vì những lợi thế mà họ được hưởng khi di chuyển ít người hơn, rằng người Anh sẽ duy trì quyền kiểm soát các Thánh địa và các đường ống dẫn dầu/đường sắt có tầm quan trọng nhất, và rằng khu vực đỏ đại thể sẽ là biên giới của nhà nước Do Thái. Người Ả Rập và Israel đều bác bỏ kế hoạch này và nó bị coi là sự phản bội lời hứa với người Ả Rập (một lần nữa), góp phần nặng nề khiến bạo lực bùng phát trở lại.

Mặc dù người Anh buộc phải tăng cường đàn áp để xử lý sự bùng phát của chiến sự một lần nữa, nhưng họ bị hạn chế trong những gì có thể làm bởi cuộc chiến sắp xảy ra ở châu Âu và lo ngại rằng nó sẽ đến gần khi họ đang cố gắng dập tắt cuộc nổi dậy.

Để đối phó với tình trạng bạo lực giảm dần và để cố gắng xoa dịu người Ả Rập trước chiến tranh, người Anh đã đưa ra Sách trắng năm 1939. Nó áp đặt những hạn chế khắc nghiệt hơn đối với việc người Do Thái nhập cư vào Palestine, theo mức hạn ngạch 75.000 người cho 5 năm tiếp theo, sau đó sẽ có nhiều người nhập cư hơn nếu có sự đồng ý của người Ả Rập.

Đầu những năm 1940 – Dẫn đến Chiến tranh Toàn diện

Khi 5 năm trôi qua, vẫn còn khoảng 11.000 giấy chứng nhận nhập cư. Điều này diễn ra vào khoảng năm 1944. Người Do Thái từ chối lời đề nghị cấp những giấy chứng nhận đó với mức 1.500 giấy mỗi tháng và nhấn mạnh rằng 100.000 người Do Thái bị di dời (rõ ràng là từ Thế chiến thứ hai) phải được phép vào. Tổng thống Truman (Tổng thống Mỹ) đã ủng hộ việc này nhưng nó đã không xảy ra. Đến cuối năm 1945, chỉ còn lại 400 giấy chứng nhận và vấn đề nhập cư của người Do Thái ngày càng cấp thiết. Điều cấp bách hơn nữa là thực tế là các tổ chức theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái trong khu vực đã gửi những người nhập cư bất hợp pháp đến Palestine càng nhiều càng tốt, thách thức chính quyền của Anh trong khu vực.

Ngoài ra, các báo cáo về số lượng nhập cư bất hợp pháp xảy ra trong tháng đầu tiên của năm 1946 đã bị thổi phồng; người Ả Rập tin rằng con số đó là 6.000, trong khi con số thực tế là gần 2.000. Người Anh chiều theo người Ả Rập, người chiều theo Liên đoàn Ả Rập, về sự sắp xếp nào là tốt nhất cho việc nhập cư trong tương lai.

Người Ả Rập không hài lòng với ý tưởng nhập cư nhiều hơn và đưa ra những câu trả lời mà người Anh cho là mơ hồ. Vào ngày 20 tháng 4 năm 1946, một ủy ban Anh – Mỹ (Anh – Mỹ) được thành lập để xem xét vấn đề đã gợi ý cho phép 100.000 người Do Thái di tản vào. Các nhà ngoại giao Anh ở Ả Rập coi đây là một báo cáo tai hại; họ lo sợ sự phản đối của người Ả Rập và bạo lực của cả hai bên. Nhà ngoại giao Anh Grafftey – Smith cho rằng từ quan điểm về mối quan hệ của chính phủ Anh với các quốc gia Trung Đông và thế giới Hồi giáo mà nói: đây là một báo cáo tai hại.

Thủ tướng Atlee, khi nghe tin Truman dự định chỉ phát biểu ủng hộ những phần hữu hảo với người Do Thái trong báo cáo, đã nói rằng cho đến khi quân đội bất hợp pháp ở Palestine bị giải tán, Lãnh thổ Uỷ trị Palestine bắt buộc không thể tiếp nhận một số lượng lớn người nhập cư như vậy. Trên thực tế, Thủ tướng đã hoãn vô thời hạn ý tưởng cho 100.000 người Do Thái nhập cư.

Tuy nhiên, người Ả Rập vẫn cảm thấy lo ngại và đã tổ chức các cuộc họp khẩn cấp về chủ đề này. Các mối quan hệ bắt đầu rạn nứt và căng thẳng ngày càng tăng cao.

Trước khi bùng nổ cuộc nội chiến thực sự vào năm 1947, cần lưu ý một số điều sau:

– Cả hai bên đã thành lập các tổ chức ngầm chuyên thực hiện các cuộc tấn công khủng bố.

– Bạo lực không chỉ giới hạn ở lẫn nhau; cả hai cũng đều nhắm vào người Anh.

– Bạo lực mang tính chất du kích và sử dụng các phương pháp khủng bố.

Trước bạo lực này và sự thất bại của tất cả các cuộc đàm phán và ủy ban, người Anh quyết định sơ tán vào tháng 2 năm 1947, và vào tháng 4 năm 1947, họ quyết định trả lại Palestine cho Liên hợp quốc mà không có phó thác gì. Về cơ bản thì họ đang quay đầu bỏ đi, không thể giải quyết vấn đề trong bối cảnh bạo lực gia tăng. Ai có thể đổ lỗi cho họ đây? Có một loạt bạo lực, một loạt xung đột, và họ đã cố gắng và thất bại trong hơn 20 năm để đạt được một thỏa thuận nào đó. Sau Thế chiến thứ hai, đơn giản là họ không còn lòng dạ nào để đối phó với nó nữa.

Nhịp độ Tăng nhanh – UNSCOP và Nội chiến năm 1947

Mọi chuyện nhanh chóng xảy ra sau tháng 4 năm đó. Vào tháng 5 năm 1947, một phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc (UNGA) đã diễn ra và vào ngày 15 tháng 5 năm 1947, UNGA đã thành lập UNSCOP (Ủy ban đặc biệt của Liên hợp quốc về Palestine). Bao gồm Úc, Canada, Tiệp Khắc, Guatemala, Ấn Độ, Iran, Hà Lan, Peru, Thụy Điển, Uruguay và Nam Tư. Ủy ban này được giao nhiệm vụ đưa ra các khuyến nghị theo cách tương tự như Ủy ban Peel đã thực hiện vào năm 1936.

Cuối tháng 8 năm 1947, UNSCOP đưa ra báo cáo và khuyến nghị. Nó đề xuất những điều sau đây, bạn có thể đọc bằng cách xem báo cáo tại đây và đi tới phần đề xuất:

– Sự uỷ trị phải được kết thúc càng sớm càng tốt.

– Độc lập cho tất cả các nước được đề xuất sẽ được trao càng sớm càng tốt.

– Sẽ có một giai đoạn chuyển tiếp (càng ngắn càng tốt), nơi việc chuẩn bị cho nền độc lập sẽ được thực hiện, dưới trách nhiệm của Liên hợp quốc.

– Những nơi thánh địa sẽ được mở cửa cho tất cả mọi người.

– Những người Do Thái di tản khỏi Thế chiến thứ hai sẽ được các quốc gia trên thế giới giúp đỡ di chuyển nếu cần thiết.

– Các quốc gia mới PHẢI dân chủ, tôn trọng các quyền như tự do ngôn luận, tôn giáo…

– Tất cả các tranh chấp giữa các quốc gia và các quốc gia khác cũng sẽ được giải quyết hoàn toàn hòa bình.

– Sự thống nhất kinh tế tự do giữa các quốc gia bị chia cắt sẽ là điều tốt nhất.

– Người dân của các quốc gia khác trong khu vực sẽ được khuyến khích từ bỏ quyền công dân của họ để chuyển đến các quốc gia mới mà họ đang ở, với các quyền tương tự được đảm bảo.

– Tất cả các bên bạo lực được kêu gọi chấm dứt và hợp tác theo trật tự.

Báo cáo lưu ý rằng không phải tất cả người Do Thái đều có thể phù hợp với Palestine và điều đó không thể làm giảm bớt nỗi đau khổ của tất cả những người Do Thái đau khổ và phải di dời, những người cần được cứu trợ khẩn cấp.

Vậy, bản thân các quốc gia và đặc điểm của chúng thì sao? Đó là trọng tâm chính của thế giới khi xem xét UNSCOP và báo cáo của UNSCOP đã đưa ra những khuyến nghị về chủ đề này:

– Việc phân chia sẽ được chính thức hóa trong vòng 2 năm (từ ngày 1 tháng 9 năm 1947). Đây sẽ là giai đoạn chuyển tiếp nói trên.

– Một quốc gia Ả Rập, nhà nước Do Thái và thành phố thánh Jerusalem đều sẽ bị chia cắt thành các khu vực riêng biệt.

– Nhà nước Do Thái sẽ ngay lập tức tiếp nhận 150.000 người Do Thái nhập cư, trong đó có 30.000 người vì lý do nhân đạo. Việc tiếp nhận sẽ diễn ra với tỷ lệ thống nhất (60.000 một năm). Nếu quá trình chuyển đổi kéo dài hơn 2 năm, mức 60.000 người Do Thái mỗi năm sẽ được phép tiến vào.

– Những người gửi ý định trở thành công dân của các quốc gia mới sẽ bỏ phiếu cho các hội đồng cấu thành để đại diện cho mỗi quốc gia mới. Điều đáng quan tâm là phụ nữ, theo khuyến nghị, không được phép làm thành viên của các hội đồng này.

– Trong quá trình chuyển đổi, không người Ả Rập hay người Do Thái nào có thể chuyển đến quốc gia của người kia.

– Không quốc gia nào có thể tước đoạt đất đai (tức là đất nước Ả Rập từ người Do Thái và ngược lại) mà không có thông báo bằng văn bản rằng đất (thích hợp cho nông nghiệp) đã không được sử dụng trong một năm và không cho phép nó có thời gian sử dụng.

– Quyền tự do quá cảnh và thăm viếng sẽ được trao cho tất cả mọi người, giữa các quốc gia.

– Nhà nước Do Thái sẽ có 498.000 người Do Thái, 407.000 người Ả Rập và những người khác. Nhà nước Ả Rập sẽ có 10.000 người Do Thái, 798.000 người Ả Rập và những người khác. Jerusalem sẽ có 100.000 người Do Thái/Ả Rập mỗi bên.

– Người Do Thái sẽ nhận được khoảng 56% đất đai và người Ả Rập sẽ nhận được phần còn lại. Điều này là vì một vài lý do. UNSCOP đánh giá rằng người Do Thái sẽ cần đất đáng kể để nhập cư và phát triển, rằng họ sẽ phải làm phần lớn công việc để phát triển vùng đất dân cư thưa thớt khi không còn lựa chọn nào khác, và họ sẽ trao Negev cho người Do Thái; phần lớn được coi là không sử dụng được.

– Các thánh địa sẽ nằm dưới sự quản lý của Thống đốc Jerusalem. Thống đốc sẽ là một phần của cơ quan quản trị quốc tế kiểm soát thành phố và quản lý thành phố một cách công bằng và công khai cho tất cả mọi người.

Đó là những điểm chính của báo cáo. Và đây… đây là nơi mà mọi thứ trở nên tồi tệ. Sau khi đệ trình báo cáo này lên UNGA vào ngày 3 tháng 9 năm 1947, đã phải có những cuộc thảo luận và chấp nhận (nếu nó được thực hiện). Người Do Thái, mặc dù có phần chia rẽ nhưng phần lớn đã chấp nhận kế hoạch này. Irgun và Lehi, những nhóm cực đoan hơn thực hiện các cuộc tấn công và hành động thay mặt Chủ nghĩa phục quốc Do Thái, vẫn từ chối phân vùng cho đến ngày 29 tháng 11 năm 1947 (khi UNGA bỏ phiếu… có thể là ngày 30). Hai nhóm này được gọi là những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái xét lại. Tuy nhiên, cho đến nay họ vẫn là thiểu số, phải đối mặt với hầu hết các nhóm khác đang muốn phân chia.

Mặt khác, người Ả Rập gần như nhất trí bác bỏ kế hoạch phân chia. Tại thời điểm này, kế hoạch có vẻ như đã thất bại vì phe phái của cả hai bên không sẵn sàng chấp nhận nó và mọi người đều biết rằng nó sẽ kết thúc trong xung đột, giống như trước đây. Họ có thể chưa thực sự hiểu chính xác xung đột sẽ lớn đến mức nào, phần này sẽ nói rõ hơn sau. Điều quan trọng cần lưu ý là trong khi hầu hết người Do Thái chấp nhận kế hoạch này, thì một số ít phe phái không chấp nhận và người Ả Rập HẦU HẾT không chấp nhận (về cơ bản là đối lập với người Do Thái), khiến xung đột tiếp tục diễn ra. Irgun và Lehi rất tích cực trong cuộc chiến, và người Ả Rập hầu như cam kết tham gia cuộc chiến và phần lớn bác bỏ kế hoạch này, vì vậy không thể tránh khỏi bạo lực sẽ tiếp diễn.

Một số người cho rằng nếu người Ả Rập chấp nhận thì Irgun và Lehi sẽ phục tùng. Tuy nhiên, đây là giả thiết và hoàn toàn có khả năng Irgun và Lehi sẽ tiếp tục chiến đấu và gây ra xung đột một lần nữa. Vì vậy, tôi không suy ngẫm về câu hỏi mang tính đổ lỗi đó.

Tiếp theo, khi UNGA bỏ phiếu thông qua kế hoạch vào khoảng cuối tháng 11 năm 1947, một cuộc nội chiến thực sự đã nổ ra toàn diện ở Palestine. Cuộc nội chiến này không hề bị ngăn cản bởi người Anh, những người không muốn can thiệp vào thời điểm này và đã chính thức cam kết rút lui vào thời điểm Uỷ trị hết hạn. Họ cũng cấm Liên hợp quốc can thiệp (bằng cách nói rằng người Anh sẽ không giúp thực hiện kế hoạch của UNSCOP và họ sẽ không chia sẻ quyền quản lý trong khi Ủy quyền tiếp tục), và điều đó chỉ góp phần thúc đẩy cuộc đổ máu tiếp tục diễn ra.

Bạo loạn bắt đầu nổ ra ở Jerusalem vào tháng 12 năm 1947, và xung đột tiếp tục leo thang khi người Anh cắt giảm lực lượng của họ. Vào ngày 2 tháng 12, một đám đông người Ả Rập đã tràn ra khỏi Cổng Jaffa ở Thành phố Cổ Jerusalem và tiến đến trung tâm thành phố Do Thái gần đó trên Đường Jaffa. Cảnh sát Anh đã chặn họ và họ đi đến một trung tâm thành phố mới hơn trên Phố Mamilla, phía tây Cổng Jaffa. Ở đây, các giải pháp ở tầng trệt chủ yếu là người Do Thái, còn các tầng trên chủ yếu là người Ả Rập. Người Do Thái bị tấn công, và tầng trệt bốc cháy trong bạo lực. Để đáp lại, người Anh sau đó đã phải đối phó với một đám đông Do Thái khi họ đang cố gắng giải tán đám đông Ả Rập. Họ thực sự đã mất quyền kiểm soát Jerusalem trong bối cảnh bạo lực và hỗn loạn này trong vài ngày, họ áp đặt lệnh giới nghiêm và lục soát vũ khí đối với người Ả Rập và người Do Thái (người Do Thái là phe mạnh hơn).

Sự yên bình này kéo dài đến ngày 6 tháng 12 (như bạn thấy đấy, không lâu), cho đến khi bạo lực bùng phát một lần nữa. Cao ủy, người lãnh đạo được ủy quyền, không nắm bắt được chính xác tốc độ ông ta đánh mất kiểm soát và tốc độ hoàn toàn mất kiểm soát. Ngày 4 – 5 tháng Giêng đặc biệt khó khăn khi Haganah (nhóm Israel) cho nổ tung một khách sạn, giết chết 40 người (mặc dù con số này không rõ ràng, nhưng cần lưu ý rằng trong đó có cả đại sứ Tây Ban Nha). Vào ngày 14 tháng 1 năm 1948, người Ả Rập đã nỗ lực phối hợp để chiếm các khu định cư của người Do Thái xung quanh Jerusalem, và Haganah đã đáp trả bằng nỗ lực chiếm các khu định cư của người Ả Rập. Vào tháng 2, các phương pháp ném bom đã được người Ả Rập áp dụng nhưng ở quy mô lớn hơn. Ví dụ, vào ngày 22 tháng 2, một quả bom xe đã giết chết 54 người.

Bạo lực tiếp tục theo lối như vậy, leo thang rất nhiều và rất nhanh chóng. Người Anh gần như bất lực trong việc ngăn chặn nó, vì nó đã vượt khỏi tầm kiểm soát của họ nhanh hơn nhiều so với những gì họ có thể tưởng tượng. Chính sách không hòa giải và không can thiệp mà họ áp dụng cũng đã khiến họ bó tay, và mặc dù họ đã cố gắng di chuyển người Do Thái / Ả Rập đến các khu vực riêng biệt của thành phố, nhưng điều này cũng thất bại. Người Anh cũng cảm thấy bị áp lực; họ biết người Do Thái có hỏa lực, tính cơ động, sự chủ động tốt hơn (ít nhất là như đã được thể hiện) và khả năng tổ chức và họ có khả năng giành chiến thắng trong cuộc chiến này (ít nhất là ở giai đoạn này).

Hiện tại, các chiến binh từ các quốc gia Ả Rập trong khu vực (và vũ khí) đã bắt đầu di chuyển vào Palestine, với mục tiêu hỗ trợ những người Ả Rập đang chiến đấu. Đến cuối tháng 2, 4.000 – 5.000 quân ALA (Quân đội Giải phóng Ả Rập) có vũ trang đã xâm nhập trái phép vào khu vực cùng với các tình nguyện viên không có tổ chức. Vì người Anh đang sơ tán nên họ cũng bất lực trong việc ngăn chặn việc này. Đến tháng 3, Haganah bắt đầu thể hiện sức mạnh đến mức người Anh nhận ra rằng họ sẽ không bao giờ có thể ngăn chặn được cuộc giao tranh.

Các nhà sử học Israel (ít nhất là vào thời điểm đó) coi tháng 4 và tháng 5 năm 1948 là một phép lạ đối với chính nghĩa của người Do Thái. Người Do Thái vốn đã có lợi thế, nhưng vào tháng 4, một cuộc tấn công đã được thực hiện. Các vụ thảm sát đã xảy ra, đặc biệt là ở Deir Yassin, mặc dù cả hai bên đều không… tử tế… với dân thường của kẻ thù. Hãy ghi nhớ điều này.

Tuy nhiên, đến ngày 22 tháng 4, Haganah đã tiếp quản Haifa. Điều này được coi là rất quan trọng và là một điểm rất lớn trong cuộc chiến. Người Anh đã ngầm hợp tác, xem xét việc họ bất lực thế nào trong việc tiếp quản. Họ chỉ đơn giản là sơ tán qua các cảng của Haifa. Một chuỗi thành công quân sự nối tiếp sau đó. Vào ngày 24 tháng 4, Palmach chiếm được khu vực Sheikh Jarrah của Jerusalem và Jaffa cũng thất thủ. Xã hội Palestine đã sụp đổ một cách trầm trọng.

Tuy nhiên, đây không phải là kết thúc của nó. Còn rất nhiều điều nữa sắp xảy ra và mọi người đều biết điều đó. Ở đây, hãy tập trung vào cái mà người Ả Rập gọi là Nakba (tạm dịch là thảm họa) và cái mà người Do Thái gọi là Milkhemet Ha_atzmaut (Chiến tranh giành độc lập).

Israel Thành lập – Chiến tranh Quốc tế bùng nổ

Vào ngày 15 tháng 5 năm 1948, sự Uỷ trị của Anh hết hạn. Vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, người Do Thái tuyên bố độc lập.

Trên thực tế, có rất ít thay đổi với tuyên bố này. Nó ngay lập tức được thừa nhận và Israel được nhiều quốc gia (bao gồm cả Hoa Kỳ) công nhận. Ba ngày sau, Liên Xô sẽ công nhận Israel.

Tuyên bố đã thiết lập Israel ở những biên giới không chắc chắn. Dự thảo ban đầu nói rằng sẽ diễn ra theo đúng kế hoạch của UNSCOP nhưng phần đó đã bị lược bỏ. Những người theo chủ nghĩa xét lại đã cố gắng nói rằng: …trong biên giới lịch sử của nó, nhưng điều đó không thành công. Tất cả những gì Israel nói là thế này, trong tuyên bố của mình:

Nhà nước Israel sẵn sàng hợp tác với các cơ quan và đại diện của Liên hợp quốc trong việc thực hiện nghị quyết của Đại hội đồng ngày 29 tháng 11 năm 1947 và sẽ thực hiện các bước nhằm mang lại liên minh kinh tế cho toàn bộ Eretz – Israel.

Điều này không nói rõ liệu các biên giới trong nghị quyết có giữ nguyên hay không hay nó có ý nghĩa gì. Điều đó không quan trọng; tình hình sẽ không cho phép một cuộc thảo luận như vậy.

Liên đoàn Ả Rập, vào ngày 15 tháng 5 năm 1948, tuyên chiến với Israel và ngay lập tức xâm lược.

Đây là nơi vấn đề trở nên hóc búa. Về cơ bản, bạn đã có nhiều câu chuyện khác nhau về những gì đã xảy ra với dân số của cả hai nhóm trong chiến tranh. Người Do Thái khẳng định rằng họ bị buộc rời khỏi các nước Ả Rập, trong khi người Ả Rập khẳng định rằng họ tự nguyện rời đi hoặc vì những nỗi sợ hãi vô căn cứ. Người Do Thái cho rằng người Palestine chạy theo sự thúc giục của chính phủ họ, trong khi người Ả Rập cho rằng họ bị buộc phải rời đi. Một làn sóng được gọi là Các nhà sử học mới là các nhà sử học Israel (như Benny Morris), những người chấp nhận tuyên bố của người Ả Rập rằng họ đã bị buộc phải rời đi, nhưng ngay cả khi đó những lời biện minh vẫn được đưa ra.

Trong bản tuyên ngôn độc lập, người Israel đã nói điều này về những gì đang xảy ra với những người đã sống trên mảnh đất:

Nhà nước Israel sẽ mở cửa cho việc nhập cư của người Do Thái và cho việc tập hợp những người lưu vong; nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của đất nước vì lợi ích của mọi người dân; nó sẽ dựa trên tự do, công lý và hòa bình như các tiên tri của Israel đã dự kiến; nó sẽ đảm bảo sự bình đẳng hoàn toàn về các quyền chính trị và xã hội cho tất cả người dân, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc hay giới tính; nó sẽ đảm bảo quyền tự do tôn giáo, lương tâm, ngôn ngữ, giáo dục và văn hóa; nó sẽ bảo vệ Thánh địa của mọi tôn giáo; và nó sẽ trung thành với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.

Cần lưu ý rằng điều này có nghĩa là Israel đã tự coi mình là người quản lý các Thánh địa, điều này sẽ mâu thuẫn với kế hoạch của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, cũng không thể nói liệu họ có ý định trở thành người quản lý phần còn lại của khu vực dành cho một quốc gia Ả Rập hay không.

Dù sao đi nữa, họ đã hứa bình đẳng và tự do thực hành tôn giáo. Tuy nhiên, người Ả Rập vẫn còn sợ hãi và một số đã bỏ chạy. Một số ở lại hoặc không bị buộc phải rời đi.

Tất cả đã nói và làm, khi chiến tranh kết thúc, Israel đã tiếp quản toàn bộ khu vực mà nhà nước Do Thái lẽ ra sẽ có theo kế hoạch của UNSCOP và 50% diện tích của Ả Rập. Trước chiến tranh, 950.000 người Ả Rập (đại khái) sống ở khu vực trở thành Israel. Sau đó chỉ còn lại 156.000. Hầu hết họ đều được cấp quyền công dân nhưng phải tuân theo thiết quân luật và nhiều người sáng lập Israel không muốn họ ở lại. Tuy nhiên, họ vẫn ở lại và hiện có hơn 1,65 triệu người Ả Rập sống ở Israel với tư cách là công dân.

Tại sao Liên Xô lại công nhận Israel?

Hầu hết mọi người đều liên tưởng đến Liên Xô theo cách đó vì họ đã ủng hộ người Ả Rập vào năm 1973. Trong cuốn sách Soviet Decision Making in Practice: The USSR and Israel, 1947 – 1954, của Yaacov Ro_i. Tác giả lập luận rằng Liên Xô có quyền lợi nhất định trong việc thành lập Nhà nước Do Thái, bởi vì nó sẽ mang lại cho Liên Xô (những gì họ tin tưởng) như ảnh hưởng đối với chính phủ chuyển tiếp sau phân vùng. Kể từ khi Liên Xô bước vào Thế chiến thứ hai, họ đã duy trì liên lạc thường xuyên với người Do Thái ở Palestine (sau này gọi là Yishuv), vì họ hy vọng có được ảnh hưởng trong khu vực. Khi các đề nghị của họ được đáp ứng một cách thuận lợi, họ chuyển từ cuối năm 1944 sang đầu năm 1945 từ phản đối chính nghĩa của Nhà nước Do Thái sang khen ngợi và giúp đỡ nó phát triển.

Vào thời điểm này, Liên Xô vẫn nghĩ rằng sẽ có một cuộc thảo luận quốc tế về tương lai của Palestine, trong đó họ có thể thúc đẩy một cái gì đó giống như một ủy thác quốc tế mà họ sẽ có được ảnh hưởng. Vào tháng 2 năm 1945, sau Hội nghị Yalta, Anh tuyên bố sẽ không đưa vấn đề này ra trước Liên hợp quốc và ý tưởng về một ủy thác phần lớn đã sụp đổ. Có vẻ như Roosevelt và Churchill đã quyết định ủng hộ hoàn toàn chính nghĩa của người Do Thái, trao Palestine cho người Do Thái, hoặc ít nhất đó là những gì Stalin đã nghe được. Và do đó, Stalin, sau khi đưa ra lời đảm bảo với Roosevelt rằng ông ủng hộ chính nghĩa của người Do Thái, giờ đây hầu như chuyển sang im lặng. Trong khi một số quan chức Liên Xô ủng hộ chính nghĩa của người Do Thái một cách riêng tư, thì không có thêm lời đề nghị ủng hộ nào trước công chúng.

Tuy nhiên, Liên Xô sẽ hỗ trợ việc gia tăng, chẳng hạn như việc người Do Thái nhập cư từ Liên Xô đến Palestine. Thông qua đó, họ sử dụng một đòn bẩy khá hiệu quả giúp họ có được một số biện pháp ảnh hưởng trong khu vực. Đồng thời, Liên Xô đang xây dựng mối quan hệ với các quốc gia Ả Rập ở Trung Đông. Trên thực tế, phương Tây đã lo ngại về mức độ thành công mà Liên Xô đạt được trong các mối quan hệ ở đó. Hoạt động ngày càng tăng này cho thấy sự sẵn sàng của Liên Xô trong việc cố gắng tham gia vào vấn đề Palestine. Rốt cuộc, họ hy vọng tận dụng cảm giác chống Anh mạnh mẽ để có được chỗ đứng nói trên ở Trung Đông, điều này sẽ mang lại cho họ nhiều khu vực hơn nữa để họ có thể bố trí quân đội hoặc lực lượng nếu cần thiết.

Điều này tạo thành nền tảng cơ bản cho các cuộc thảo luận của Liên Xô về Palestine.

Trong cuốn sách Harry Truman_s Recognition of Israel của Michael Ottolenghi, sự lựa chọn của Harry Truman công nhận Israel (theo hầu hết các học giả) là một phản ứng đối với việc Liên Xô đang cố gắng giành quyền thống trị. Truman nhận ra Israel gần như ngay lập tức, chỉ 11 phút sau khi quốc gia này ra đời, và nhiều người đã ngạc nhiên. Tuy nhiên, theo đánh giá của Kennan (Phó trưởng phái bộ Hoa Kỳ tại Liên Xô) về việc Liên Xô đang tìm cách thống trị thế giới và quan điểm của ông rằng Hoa Kỳ nên hỗ trợ các quốc gia dân chủ để kiềm chế Liên Xô, điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Một dạng đồng thuận Chiến tranh Lạnh đã được xây dựng sẽ hình thành nên nhiều vấn đề cho Chiến tranh Lạnh trong tương lai, trong đó Hoa Kỳ và Liên Xô sẽ cạnh tranh để giành ảnh hưởng. Israel cũng không ngoại lệ.

Điều quan trọng cần lưu ý là Hoa Kỳ đã công nhận Israel thông qua các phương tiện trên thực tế, trong khi Liên Xô công nhận Israel thông qua các phương tiện theo luật định, mà Hoa Kỳ sẽ không gia hạn cho đến tháng 1 năm 1949. Trên thực tế có nghĩa rằng sự công nhận này giống như một Bạn là những người duy nhất có mặt, theo mặc định, bạn là người chịu trách nhiệm về đất nước thay vì Chúng tôi công nhận bạn là người có quyền đối với khu vực, đó là điều mà Liên Xô đã làm. Sự cạnh tranh này được thể hiện rõ ràng trong các tuyên bố công nhận mà họ đưa ra. Sự công nhận của Hoa Kỳ, trong khi là người công nhận đầu tiên, đã nói điều này:

Hoa Kỳ công nhận Chính phủ lâm thời là cơ quan có thẩm quyền trên thực tế của Nhà nước Israel mới.

Ngược lại với Liên Xô:

Xác nhận đã nhận được bức điện của các bạn ngày 16 tháng 5, trong đó các bạn thông báo cho Chính phủ Liên Xô về tuyên bố, trên cơ sở nghị quyết của Hội đồng Liên hợp quốc ngày 29 tháng 11 năm 1947, về việc thành lập Nhà nước Israel và chính phủ lâm thời của nó bởi Liên Xô, tôi thông báo với các bạn trong bức thư này rằng Chính phủ Liên Xô đã quyết định chính thức công nhận Nhà nước Israel và Chính phủ lâm thời của nó.

Những lời đề nghị ở đây rất rõ ràng. Hoa Kỳ và Liên Xô đang cạnh tranh để giành ảnh hưởng, và Liên Xô đang công nhận về mặt pháp lý để vượt lên trên Hoa Kỳ. Tuy nhiên, họ đã thất bại.

Nguồn tham khảo

– Theodore Herzl: A Reevaluation Jacques Kornberg The Journal of Modern History, Vol. 52, No. 2 (Jun., 1980), pp. 226 – 252.

– Theodor Herzl: Political Activity and Achievements Isaiah Friedman Israel Studies, Vol. 9, No. 3 (Fall, 2004), pp. 46 – 79.

– The McMahon – Hussein Correspondence and the Question of Palestine Isaiah Friedman Journal of Contemporary History, Vol. 5, No. 2 (1970), pp. 83 – 122.

– Understanding the Balfour Declaration Joe Stork MERIP Reports, No. 13 (Nov., 1972), pp. 9 – 13

– The Western Wall Riots of 1929: Religious Boundaries and Communal Violence Alex Winder Journal of Palestine Studies, Vol. 42, No. 1 (Autumn 2012), pp. 6 – 23.

– From Law and Order to Pacification: Britain_s Suppression of the Arab Revolt in Palestine, 1936 – 39 Matthew Hughes Journal of Palestine Studies, Vol. 39, No. 2 (Winter 2010), pp. 6 – 22.

– The Struggle against Jewish Immigration to Palestine Arieh J. Kochavi Middle Eastern Studies, Vol. 34, No. 3 (Jul., 1998), pp. 146 – 167.

– Opposing Partition: The Zionist Predicaments after the Shoah Colin Shindler Israel Studies, Vol. 14, No. 2 (Summer, 2009), pp. 88 – 104.

– The Arab Struggle against Partition: The International Arena of Summer 1947 Elad Ben – Dror Middle Eastern Studies, Vol. 43, No. 2 (Mar., 2007), pp. 259 – 293.

– The Haifa Turning Point: The British Administration and the Civil War in Palestine, December 1947 – May 1948 Motti Golani Middle Eastern Studies, Vol. 37, No. 2 (Apr., 2001), pp. 93 – 130.

– Israel_s 1948 War of Independence as a Total War Moshe Naor Journal of Contemporary History, Vol. 43, No. 2 (Apr., 2008), pp. 241 – 257.

– Ro_i, Yaacov. Soviet Decision Making in Practice: The USSR and Israel, 1947 – 1954. New Brunswick, NJ: Transaction, 1980.

– Michael Ottolenghi. Harry Truman_s Recognition of Israel.

– The Historical Journal, Vol. 47, No. 4 (Dec., 2004), pp. 963 – 988.

– Philip Marshall Brown. The Recognition of Israel.

– The American Journal of International Law, Vol. 42, No. 3 (Jul., 1948), pp. 620 – 627.

nhavantuonglai

Share:
Quay lại.

Có thể bạn chưa đọc

Xem tất cả »
Lịch sử của mùi hương và mùi hôi

Lịch sử của mùi hương và mùi hôi

Dù phim ảnh không thể truyền tải mùi hương nhưng chúng vẫn lừa dối khán giả hiện đại khiến họ nghĩ rằng lịch sử có mùi hương kỳ lạ và…

Lược sử về địa ngục

Lược sử về địa ngục

Lịch sử của địa ngục không bắt đầu với Cựu Ước. Thay vào đó địa ngục đã hình thành vào thế kỷ thứ 2 thông qua sự giao thoa văn…

Liên lạc trao đổi

Liên lạc thông qua Instagram

Thông qua Instagram, bạn có thể trao đổi trực tiếp và tức thời, cũng như cập nhật những thông tin mới nhất từ nhavantuonglai.

Tức thời

Bạn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng, trực tiếp, giúp những vấn đề cá nhân của bạn được giải quyết tức thời và hiệu quả hơn.

Thân thiện

Vì tính chất là kênh liên lạc nhanh, nên bạn có thể bỏ qua những nghi thức giao tiếp thông thường, chỉ cần lịch sự và tôn trọng thì sẽ nhận được sự phản hồi đầy thân thiện, thoải mái từ tác giả.

Trao đổi trên email

Thông qua email cá nhân, bạn có thể trao đổi thỏa thuận hợp tác, kết nối chuyên sâu và mang tính chuyên nghiệp.

Tin cậy

Trong một số trường hợp, email được dùng như một tài liệu pháp lý, chính vì vậy mà bạn có thể an tâm và tin cậy khi trao đổi với tác giả thông qua email.

Chuyên nghiệp

Cấu trúc của email đặt tính chuyên nghiệp lên hàng đầu, nên những thông tin, nội dung được viết trong email từ tác giả sẽ luôn đảm bảo điều này ở mức cao nhất.