Clifford Stoll | Gián điệp mạng (Chương 38)
Gián điệp mạng là câu chuyện người thật việc thật kể về cuộc săn đuổi hacker bất đắc dĩ của nhà khoa học chuyển tay ngang trở thành chuyên gia mạng máy tính ở Phòng Thí nghiệm Lawrence Berkeley, California, Mỹ.
· 16 phút đọc.
Sau khi xâm nhập vào một căn cứ quân sự khác, gã hacker vẫn chưa có ý định nghỉ ngơi. Hắn trở lại phòng thí nghiệm của chúng tôi, năm lần bảy lượt tìm cách vào lại Bộ Chỉ huy Hệ thống Không quân nhưng không thành công. Hắn không thể quay trở lại những máy tính của họ được.
Cách họ chặn cửa gã hacker rất khéo. Họ không đơn thuần gửi thông báo rằng: Hacker đừng bén mảng lại gần.
Thay vào đó, họ cài đặt lại tài khoản Abrens mà gã hacker đã đánh cắp sao cho nó gần như vẫn hoạt động bình thường. Khi hắn đăng nhập, máy tính của Không quân tỏ ra vẫn chấp nhận nó, nhưng rồi lại gửi một tin nhắn báo lỗi – như thể chính gã hacker đã thiết lập tài khoản không đúng cách. tôi thắc mắc không biết gã hacker có nhận ra rằng hắn đang bị tôi kiểm soát hay chưa. Mỗi lần đột nhập được vào một máy tính, hắn lại bị phát hiện và đẩy ra.
Trong mắt hắn, tất cả mọi người ngoại trừ chúng tôi đều đã phát hiện ra hắn.
Trên thực tế thì hầu như chẳng có ai phát hiện ra hắn cả.
Ngoại trừ chúng tôi.
Hắn không thể biết được rằng mình đang bị nhốt trong lồng. Các thiết bị báo động, theo dõi và dây điện của tôi vô hình đối với hắn. Những cuộc lần dấu của Tymnet – thông qua vệ tinh và dưới lòng đại dương – hoàn toàn thầm lặng. Và giờ đây Bundespost đã đánh hơi được hắn.
Tin nhắn mới nhất từ Wolfgang là anh ta đang thu xếp để cử người trực hằng ngày ở tổng đài Hannover cho đến nửa đêm. Việc này khá tốn kém, và anh ta cần phối hợp với chúng tôi. Điều quan trọng hơn là phía Đức vẫn chưa nghe tin gì từ FBI.
Lại phải gọi cho Mike Gibbons rồi. Phía Đức vẫn chưa nhận được gì từ FBI cả, tôi nói. Anh có biết tại sao không?
Chúng tôi đang… gặp vài vấn đề nội bộ, Mike trả lời. Anh sẽ không muốn biết đâu. Tôi muốn biết lắm chứ, nhưng có hỏi cũng bằng thừa. Mike có bao giờ chịu hé răng đâu.
Tôi phải nói gì với Bundespost đây? Tôi hỏi. Họ bắt đầu sốt ruột khi mãi chưa có thông báo chính thức nào.
_Cứ báo với họ rằng tùy viên tư pháp của FBI ở Bonn đang xử lý mọi việc.
Việc giấy tờ sẽ xong xuôi thôi._
Hai tuần trước anh cũng nói thế.
Và bây giờ tôi nói lại.
Hết chuyện. Tôi chuyển thông tin này lại cho Steve ở Tymnet, và anh chuyển tiếp nó cho Wolfgang. Giới quan liêu có thể không thể liên lạc được với nhau, nhưng giới kỹ thuật thì chắc chắn là có.
Lẽ ra những phàn nàn của chúng tôi về FBI nên được gạn lọc lại, gửi đến tùy viên tư pháp Mỹ ở Bonn, rồi chuyển tới phiên bản FBI của Đức là Bundeskriminalamt (BKA). BKA có lẽ cũng là một biểu tượng về sự thật và công lý ở Đức như FBI ở Mỹ.
Nhưng có người đang rút các luồng liên lạc bắt nguồn từ Mike Gibbons.
Nhưng tôi chỉ có thể tiếp tục quấy rầy Mike và giữ liên lạc chặt chẽ với Tymnet và Bundespost. Sớm hay muộn thì FBI sẽ tiếp cận với BKA, và lệnh lục soát sẽ xuất hiện.
Trong khi đó, các nhà thiên văn học bạn tôi cần sự giúp đỡ. Tôi dành cả ngày tìm hiểu rõ tính chất quang học của kính viễn vọng ở Đài Quan sát Keck. Jerry Nelson cần các chương trình của tôi để dự đoán hoạt động của kính viễn vọng, mà tôi thì vẫn chưa có tiến triển gì kể từ khi bắt tay vào cuộc truy lùng gã hacker.
Các lập trình viên hệ thống khác cũng thi nhau tìm đến làm phiền tôi. Wayne Graves thô lỗ nóng tính ép tôi viết phần mềm cho ổ đĩa. (Vứt gã hacker đi! Giờ này lẽ ra anh phải viết được chương trình nào đó rồi chứ?) Còn Dave Cleveland thì nhẹ nhàng nhắc nhở tôi rằng cần phải kết nối 10 máy tính để bàn mới vào mạng lưới toàn phòng thí nghiệm.
Với từng người, tôi đều nói rằng gã hacker sẽ biến đi STM
– một tuyên bố mập mờ quen thuộc của giới phát triển phần mềm khắp nơi. Sớm Thôi Mà.
Trên đường tới chỗ nhóm nghiên cứu thiên văn học, tôi tạt vào trạm điều phối một lát để kiểm tra các thiết bị theo dõi. Có người đang làm việc trên máy tính Bevatron và điều chỉnh tập tin mật khẩu.
Kỳ lạ thật. Bevatron là một trong những máy gia tốc hạt của phòng thí nghiệm, và các lập trình viên ở đó đều làm việc trong phòng thí nghiệm của chúng tôi. Chỉ quản lý hệ thống mới có thể điều chỉnh tập tin mật khẩu. Tôi nán lại xem. Có người đang thêm vào vài tài khoản mới.
Vâng, có một cách để kiểm tra xem việc làm này có hợp lệ không: Gọi cho những người phụ trách Bevatron. Chuck McParland trả lời. Không, tôi là quản lý hệ thống. Không có ai khác được cấp phép.
Chà. Vậy là bọn anh có vấn đề rồi. Có người đang vào vai Chúa trên máy tính của anh đấy.
Chuck gõ một vài dòng lệnh và quay trở lại điện thoại.
Đồ con hoang.
Máy gia tốc hạt Bevatron của Chuck sử dụng những nam châm có kích cỡ bằng cả ngôi nhà để bắn những phân mảnh nguyên tử vào những mục tiêu mỏng. Vào thập niên 1960, kho vũ khí của nó là proton. Bây giờ, nhận được nguồn tiếp tế từ máy gia tốc thứ hai, nó có thể đẩy những ion nặng đạt đến gần vận tốc ánh sáng.
Sau khi đập vỡ những hạt nguyên tử này thành nhiều lớp mỏng, các nhà vật lý học lần mò trong những mảnh vụn để tìm những phân mảnh có thể là nền tảng cơ bản tạo nên vũ trụ. Họ phải xếp hàng đợi cả tháng trời mới đến lượt sử dụng các đường dẫn chùm sáng; nhưng quan trọng hơn, các bệnh nhân ung thư cũng đang xếp hàng chờ.
Bevatron có thể tăng tốc ion của helium lên tương đương một phần tốc độ ánh sáng với mức năng lượng là 160 triệu electron volt. Ở tốc độ này, chúng dịch chuyển một vài centimet rồi sau đó đẩy phần lớn năng lượng thoát ra ngoài.
Nếu bạn điều chỉnh vị trí của khối u ung thư vào đúng khoảng cách đối với máy gia tốc, thì hầu hết năng lượng của luồng hạt này sẽ đi trực tiếp vào khối u. Các tế bào ung thư hấp thụ nguồn năng lượng này, và khối u bị tiêu diệt mà không ảnh hưởng đến phần còn lại của cơ thể bệnh nhân. Khác với X – quang phát xạ đến mọi thứ trên đường đi của mình, những luồng hạt từ Bevatron tập trung phần lớn năng lượng tại một vị trí. Nó phát huy hiệu quả đặc biệt tốt ở những khối u não, vốn thường không thể phẫu thuật được.
Các máy tính Bevatron của Chuck tính toán ra khoảng cách đúng
cần thiết. Chúng cũng điều khiển cả máy gia tốc, nên có thể điều chỉnh đến cường độ năng lượng thích hợp.
Nếu một trong hai yếu tố trên bị sai sót, bạn sẽ triệt tiêu nhầm tế bào.
Sau mỗi vài giây, đường dẫn chùm sáng lại bắn ra một luồng ion. Bằng cách quay nam châm vào đúng thời điểm, các máy tính của Chuck sẽ gửi những luồng năng lượng này đi, có thể là vào một đối tượng thí nghiệm hay một bệnh nhân ung thư. Một lỗi sai trong chương trình này sẽ là tin xấu cho cả hai bên.
Gã hacker không chỉ lục tung máy tính, mà hắn còn chơi đùa với khối u của người bệnh.
Hắn có biết điều này không? Tôi đoán là không. Làm sao hắn biết được chứ? Đối với hắn, máy tính của Bevatron chỉ là một thứ đồ chơi như những máy khác – một hệ thống để lợi dụng. Những chương trình của nó không được dán nhãn Nguy hiểm – máy tính y tế. Đừng động vào.
Hắn không tìm kiếm thông tin một cách vô tư. Sau khi tìm được cách trở thành quản lý hệ thống, hắn sẽ táy máy nghịch hệ điều hành.
Mà hệ điều hành của chúng tôi lại là những tạo vật mỏng manh. Chúng kiểm soát cách máy tính hoạt động, cách phản ứng của các chương trình. Các quản lý hệ thống cẩn thận điều chỉnh hệ điều hành, cố gắng để máy tính hoạt động tối ưu. Phải chăng chương trình này chạy chậm vì nhiều chương trình khác nhau cùng chạy một lúc? Vậy thì hãy khắc phục bằng cách thay đổi công cụ lập lịch trình tác vụ của hệ điều hành. Hoặc có thể không có đủ chỗ cho 12 chương trình một lúc. Vậy thì, hãy thay đổi cách phân bổ bộ nhớ của hệ điều hành. Nhưng nếu phá rối, cả chiếc máy tính sẽ ngừng hoạt động.
Gã hacker không quan tâm đến chuyện hắn có phá hoại hệ điều hành của người khác hay không. Hắn chỉ muốn gài vào đó một lỗ hổng an ninh để có thể quay trở lại đây bất kỳ lúc nào. Liệu hắn có biết rằng mình có thể làm chết người hay không? Chuck đóng cửa hệ thống bằng cách thay đổi mọi mật khẩu. Vậy là thêm một cánh cửa nữa đóng sầm trước mặt hắn.
Nhưng có một lo lắng khác. Tôi đang truy đuổi một kẻ vòng quanh thế giới, nhưng vẫn chưa thể ngăn hắn xâm nhập vào các máy tính. Phương thức phòng thủ duy nhất của tôi là theo dõi hắn và cảnh báo những người bị hắn tấn công.
Dĩ nhiên, tôi có thể đá hắn ra khỏi máy tính của mình, và phủi tay khỏi đống lộn xộn này. Nhưng những nỗi lo ngại trước đó của tôi dường như vẫn chưa được lý giải: Bây giờ, tôi đã biết hắn lợi dụng những lỗ hổng an ninh nào, và có vẻ hắn cũng không có ý định cài bom hẹn giờ hay virus vào máy tính của tôi.
Đá hắn ra khỏi máy tính của tôi chỉ che đi cái cửa sổ mà tôi vẫn dùng để theo dõi hắn. Hắn sẽ tiếp tục tấn công những máy tính khác, sử dụng những mạng lưới khác. Tôi chỉ còn một cách là để hắn sục sạo loanh quanh cho đến khi bắt được hắn.
Nhưng thử tìm cách nói thế cho FBI nghe mà xem. Hôm thứ Năm, ngày 8 tháng Một, đặc vụ FBI trong vùng tên là Fred Wyniken tạt vào đây.
Tôi đến đây với tư cách là người đại diện của văn phòng ở Alexandria, Virginia, Fred nói.
Tôi không hiểu, tôi nói. Tại sao vụ này không được bàn giao cho văn phòng Oakland?
Các văn phòng chi nhánh của FBI tương đối độc lập với nhau, Fred trả lời.
Những gì mà văn phòng này nghĩ là quan trọng, văn phòng khác có thể bỏ qua. Tôi có thể đoán được anh ta xếp vụ việc của tôi vào nhóm nào.
Fred cho hay anh ta không rõ khả năng khởi tố là bao nhiêu phần trăm, vì không xử lý vụ này. Nhưng tôi nghĩ khả năng rất thấp. Anh không trình ra được bằng chứng nào về việc mất mát tiền bạc. Không hề có dữ liệu mật nào. Và gã hacker lại còn không ở Mỹ nữa.
Ra đó là lý do tại sao văn phòng FBI trong vùng không xử lý vụ này?
_Cliff, xin hãy lưu ý, FBI chỉ thụ lý những vụ án mà Bộ Tư pháp sẽ khởi tố.
Vì không có thông tin mật nào bị xâm phạm, nên không có lý do để đổ nguồn lực vào đây cả._
Nhưng nếu các anh không hành động, gã hacker sẽ tiếp tục quấy phá các máy tính của chúng ta cho đến khi hắn kiểm soát chúng.
_Nghe này. Mỗi tháng chúng tôi tiếp nhận cả nửa tá cuộc gọi đến báo rằng: Giúp tôi với! Có người đang đột nhập vào máy tính của tôi.
95% trong số đó không có hồ sơ ghi chép, không theo dõi kiểm toán và không dữ liệu kế toán._
Hãy chờ một chút. Tôi có ghi chép và theo dõi kiểm toán. Tôi có toàn bộ từng ký tự gõ phím của gã khốn này.
Tôi chuẩn bị nói đến việc này đây. Chỉ có một số ít vụ, vụ của anh là một trong số này, mới có hồ sơ ghi chép cẩn thận. Nhưng thế vẫn chưa đủ. Tổn thất của anh phải đủ để chứng minh rằng những nỗ lực của chúng tôi là cần thiết. Anh đã mất bao nhiêu rồi? 75 xu phải không?
Lại thế nữa rồi. Đúng, chi phí máy tính của chúng tôi chỉ là tiền lẻ. Nhưng tôi linh cảm được một vấn đề lớn hơn, có thể là có tầm quan trọng quốc gia.
Vậy mà đặc vụ FBI trong vùng của tôi chỉ nhìn ra một lỗi kế toán 6 bit. Chả trách tôi không thể khiến anh ta đoái hoài đến, huống hồ là hỗ trợ.
Phải đợi bao lâu nữa thì mới có người để tâm đến? Tới khi một máy tính quân sự tuyệt mật trở thành mục tiêu chăng? Hay một thí nghiệm y khoa kỹ thuật cao bị phá hoại? Điều gì sẽ xảy ra nếu một bệnh nhân trong bệnh viện bị thương? Tôi đưa cho anh ta các bản in trong mấy tuần vừa rồi (sau khi ký vào mặt sau của mỗi bản sao, cho đúng quy trình) và một đĩa mềm ghi các hóa đơn điện thoại của Mitre. Anh ta sẽ gửi tất cả cho Mike Gibbons ở văn phòng Alexandria. Biết đâu Mike sẽ dùng chúng để thuyết phục FBI nói chuyện với BKA của Đức.
Thật chán nản. Các kỹ thuật viên điện thoại người Đức vẫn chưa có lệnh lục soát, FBI chưa chịu phản hồi, còn sếp gửi cho tôi một ghi chú cụt ngủn yêu cầu tôi viết phần mềm để kết nối mạng cho một máy in mới.
Martha cũng không vui. Gã hacker không chỉ xâm nhập vào các máy tính.
Với những tiếng bíp bíp thi thoảng lại vang lên, hắn còn kiểm soát cả nhà của tôi.
Chẳng phải bây giờ đã là việc của FBI hay CIA rồi đấy sao?
Martha hỏi.
Chuyện liên quan đến cả người ngoại quốc và gián điệp kia mà? Ý em là, chẳng phải họ là đặc vụ hay sao – Sự thật, Công lý, và Phong cách Mỹ đâu tiệt rồi?
Loanh quanh vẫn là vấn đề thẩm quyền cũ rích thôi em. CIA chỉ tay sang FBI, FBI lại không muốn đụng đến nó.
Văn phòng gì đó của Không quân có đang làm gì không?
Cũng vậy thôi em. Vấn đề khởi nguồn ở Đức, và phải có người gọi đến Đức để giải quyết. Văn phòng Điều tra Đặc biệt của Không quân chỉ có thể gõ cửa FBI mà thôi.
Vậy sao anh không hành động?
Martha gợi ý. Hãy che chắn máy tính của anh rồi mặc xác gã hacker tha hồ sục sạo vào máy tính của họ. Có ai phong anh là thần bảo trợ chính thức cho các máy tính của nước Mỹ đâu.
Nhưng anh muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Ai đứng đằng sau. Bọn chúng đang tìm kiếm những gì. Phải nghiên cứu em ạ.
Những lời của Luis Alvarez vẫn còn văng vẳng trong đầu tôi, dẫu vài tháng đã trôi qua.
Thế thì hãy nghĩ cách giải quyết vấn đề mà không cần đến FBI. Nếu họ không chịu lên tiếng nhờ phía Đức lần dấu cuộc gọi, hãy tìm cách khác.
_Bằng cách nào chứ? Anh không thể gọi cho Bundespost và nói: Hãy lần dấu cuộc gọi này!
Tại sao không?
Thứ nhất, anh không biết phải gọi ai. Mà nếu anh gọi, họ cũng chẳng đời nào tin.
Vậy thì tìm cách khác để tiếp cận gã hacker.
Phải rồi. Cứ xông vào hỏi thẳng xem hắn sống ở đâu.
Đừng cười. Biết đâu lại được.
Đọc Gián điệp mạng, chương 01 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 02 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 03 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 04 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 05 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 06 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 07 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 09 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 10 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 11 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 12 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 13 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 14 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 15 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 16 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 17 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 18 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 19 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 20 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 21 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 22 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 23 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 24 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 25 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 26 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 27 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 28 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 29 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 30 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 31 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 32 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 33 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 34 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 35 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 36 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 37 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 38 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 39 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 40 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 41 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 42 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 43 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 44 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 45 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 46 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 47 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 48 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 49 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 50 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 51 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 52 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 53 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 54 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 55 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 56 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, chương 57 tại đây.
Đọc Gián điệp mạng, toàn tập tại đây.