Tom Clancy | Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ | Chương 25
Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ (The hunt for the Red October) là tiểu thuyết tình báo của Tom Clancy, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1984 và được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1990.
· 28 phút đọc.
Tàu USS NEW JERSEY.
Mọi người cần thời gian để thích nghi, phó đô đốc Zachary Eaton trầm ngâm. Khi người ta bắt đầu dựng con tàu này ông vẫn còn là đứa trẻ đang bơi trong bồn tắm. Vào thời điểm đó, Nga vẫn là đồng minh của Mỹ, nhưng là đồng minh lợi ích, chung kẻ thù nhưng khác mục tiêu. Ông đoán nó như Trung Quốc bây giờ. Kẻ thù của họ khi đó là Đức và Nhật. trong suốt 26 năm sự nghiệp, ông đã nhiều lần đến 2 quốc gia này và chiếc tàu đầu tiên ông chỉ huy, một khu trục, cũng có quê hương là cảng Yokosuka. Thật là một thế giới kỳ lạ.
Chiếc soái hạm ông đang chỉ huy có nhiều ưu điểm: Rất lớn, có thể đi trên những con sóng cao 10 feet, nó khiến ông cảm giác như đang ngồi trên biển chứ không phải ngồi bàn giấy. Tầm nhìn của nó là 10 dặm và đâu đó ngoài kia, khoảng 800 dặm là hạm đội của Nga. Chiến hạm của ông đang tiến về phía trước để gặp họ như những ngày xưa ấy, như thể chiếc hàng không mẫu hạm chưa bao giờ kẹp cùng. Tàu khu trục Caron và Stump vẫn ở trong tầm quan sát, cách 5 dặm mỗi bên. Ở phía trước NEW JERSEY, các tàu tuần dương Biddle và Wainwright đang sử dụng radar tìm kiếm các cảnh báo trên không và trên biển. Nhóm tác chiến mặt nước đang đánh dấu thời gian hay vì tiến lên như ông đề nghị. Các máy bay tấn công trực. Từ bờ biển cách không xa NEW JERSEY, tàu tấn công đổ bổ TAWARA và 2 tàu khu trục nhỏ cũng đang tiến đến tham giao, mang theo 10 máy bay tiêm kích – ném bom AV – 8B Harrier và 14 trực thăng chống ngầm để gia tăng sức mạnh phòng không. Cái này hữu dụng nhưng theo Eaton là không cần thiết. Lực lượng phòng không trên tàu sân bay SARATOGA đang tiến hành huấn luyện tác chiến phối hợp không – đối hải với các máy bay quân sự trên không ở ngoại ô Maine. Tàu sân bay INVINCIBLE của Hải quân Hoàng Gia Anh đâng cách đội 200 dặm về phía đông và tàu sân bay KENNEDY đang cách 800 dặm, ẩn mình trong thời tiết vùng Azores. Viên chuẩn tướng cảm thấy rất khó chịu khi người Anh giúp đỡ người Mỹ. Khi nào thì hải quân Mỹ cần người Anh giúp bảo vệ bờ biển chứ? Dù sao thì cũng không thể không nói họ vẫn còn nợ Mỹ cơ mà.
Quân Nga được chia thành 3 nhóm chiến đấu: Nhóm chiến đấu ở Cực Đông với tàu sân bay KIEV làm nòng cốt đối đầu trực diện với KENNEDY. Trách nhiệm của ông là chiến đấu với nhóm Moskva, và INVICIBLE phụ trách xử lý nhóm tàu KIROV. Thông tin của cả ba nhóm chiến đấu Liên xô đều liên tục được nhóm tác chiến dưới quyền gửi tới ông. Liên Xô đang làm gì nhỉ? Ông tự hỏi.
Eaton biết câu chuyện họ đang tìm kiếm một chiếc tàu ngầm mất tích, nhưng Eaton tin rằng nó cũng giống như câu chuyện họ giải thích rằng muốn bán cầu, một trò bịp. Ông nghĩ, có lẽ họ muốn thể hiện sức mạnh? Hay họ muốn chúng ta xem họ có thể điều khiển hạm đội của họ đến bờ biển nước ta bất cứ khi nào muốn? Muốn phô trương sức mạnh?
Eaton kinh tởm. ông không thích chuyện này chút nào. Cũng chẳng thích nhiệm vụ của mình cho lắm.Ông có hai nhiệm vụ gần như là bất khả thi. Giám sát hoạt động tàu ngầm Liên Xô đã rất phức tạp rồi, mà tàu Vikings vốn thuộc SARATOGA giờ lại phải rời đi, bất chấp yêu cầu giữ lại của ông, và hầu hết máy bay tuần tra chống ngầm cỡ lớn Orions cũng phải hoạt động ở xa, tiến gần hơn phía INVINCIBLE. Tàu của ông giờ chỉ có khả năng chống ngầm hạn chế và chỉ có thể đóng vai trò phòng thủ, khả năng chủ động săn tàu ngầm giảm đáng kể. Với việc tham gia của TARAWA thì khả năng chống ngầm của nhóm tàu ông sẽ cải thiện ở mức độ nào đó, nhưng đồng thời cũng thay đổi việc triển khai cảnh báo. Nhiệm vụ thứ hai của Eaton là thiết lập và duy trì liên lạc cảm biến với nhóm tàu MOSKVA và báo cáo về CINCLANTFLT (Bộ Tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương) khi thấy có bất kỳ hoạt động bất thường nào. Điều này đai loại có nghĩa là, nếu các tàu nổi của Liên Xô làm gì đó bất hợp pháp thì Eaton có đủ phương tiện để đối phó. Giờ là lúc quyết định nên để hạm đội Liên Xô cách xa tàu ông bao nhiêu thì bắt đầu theo dõi.
Câu hỏi được đặt ra là NEW JERSEY có nên tiếp cận gần hay theo dõi từ xa. Gần tức là 20 dặm – từ gọng súng của hạm đội Xô Viết. Nhóm tác chiến của tàu sân bay MOSKVA có 10 tàu hộ tống, nhưng không cái nào có thể chịu được sự bắn phá của pháo 16 inches của NEW JERSEY. Gần 20 dăm là lựa chọn hoàn hảo cho tầm bắn của pháo này rồi. Pháo này cũng được căn chỉnh bằng nòng ngắm laze đặt ở trên nóc. Thử nghiệm những năm trước cho thấy tốc độ bắn của pháo rất ổn định, trung bình 20 giây /quả, điều khiển bằng tia laze để điều chỉnh mục tiêu bắn phán cho đến khi nó bị tiêu diệt hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu như vậy thì NEW JERSEY và các tàu hộ tống cũng rất dễ phải hứng chịu ngư lôi và tên lửa tấn công từ các tàu ngầm Liên Xô,.
Nếu theo dõi ở xa hơn, NEW JERSEY cũng có thể bắn đạn xuyên thép (sabot) xung quanh bán kính 50 dặm, và họ có thể nhắm thẳng mục tiêu bằng kính ngắm laze của máy bay chiến đấu.Tuy vậy, khi máy bay bị bỏ trống, nó có khả năng bị tấn công bởi tên lửa đất đối không của Liên Xô hoặc tên lửa không đối đất do trực thăng phóng. Để đối phó với mối đe dọa này, tàu TARAWA đã đặc biệt mang theo hai trực thăng tấn công Apache. Trực thăng này được trang bị laze, tên lửa không đối không và tên lửa không đối hạm. Loại này ban đầu được thiết kế để chống lại xe tăng sau khi hạ cánh, nhưng nó vẫn có thể tấn công các loại tàu nhỏ của Liên Xô.
Theo chiến thuật này, mặc dù NEW JERSEY có thể vẫn lộ diện trong tầm bắn của đối phương nhưng Eaton không hề sợ hãi. Trừ khi mấy tên Nga bắn phá bằng đầu đạn hạt nhân, nếu không thì tên lửa chống hạm của họ không thể phá hủy tàu của ông được – NEW JERSEY được chế tạo trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai với các tấm bọc thép dày cấp B. Dù vậy, nếu người Nga dùng bộ não tử tế, chơi trò địa ngục với radar và thiết bị liên lạc của tàu, hoặc tệ hơn là tấn công vào khu vực có áo giáp yếu hơn thì tàu ông sẽ gặp nguy. NEW JERSEY có mang tên lửa chống hạm của riêng mình là Harpoons và Tomahawks, nhưng không nhiều như ông muốn.
Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu một tàu ngầm Nga phát động tấn công họ? Theo báo cáo gửi Eaton thì cho đến nay chưa có tàu ngầm nào được tìm thấy, nhưng người ta cũng chẳng bao giờ biết được nó trốn ở đâu.
Ồ, chà – Eaton nghĩ: Thôi đừng lo lắng về mọi thứ. Một con tàu ngầm có thể đánh chìm NEW JERSEY, nhưng nó cũng không dễ dàng làm điều đó. Nếu đám người Nga này dám hành động liều lĩnh, họ sẽ nhận được phát súng đầu tiên. Trước đó Eaton sẽ có đủ cảnh báo để phóng tên lửa tàu mình, thoát khỏi vài làn đạn và kêu gọi sự hỗ trợ từ trên không – ông tin chắc cũng không đến mức này đâu.
Cuối cùng Eaton quyết định coi Hạm đội Liên Xô như một hạm đội đánh cá đặc biệt và nhiệm vụ của ông là chỉ cho họ thấy là: Đánh cá ở vùng biển này rất nguy hiểm.
…
Trạm không quân hải quân, Đảo Bắc California.
Dưới sự giám giám sát của nhân viên bốc xếp chính, hai trung úy không quân và 6 sỹ quan hải quân, một xe đầu kéo quá khổ quá tải chậm chậm ở tốc độ 2 dặm/giờ đi vào khoang chiếc máy bay vận tải C – 5A Galaxy. Điều kỳ lạ là mặc dù không ai trong số sĩ quan hải quân đeo phù hiệu không quân nhưng họ lại khá thành thạo quy trình làm việc. Trọng tâm tải của rơ – moóc được đánh dấu. Sau khi xe đầu kéo vào khoang, họ chăm chú theo dõi dấu vết trên trọng tâm xem có trùng với dấu vết đặc biệt trên khoang hàng. Đây là công việc đòi hỏi độ chính xác cao, mọi sự bất cẩn có thể làm mất thăng bằng của máy bay một cách nghiêm trọng và có thể gây nguy hiểm tính mạng của cả đoàn.
– Được rồi, dừng lại ngay tại đó. Một chỉ huy cấp cao ra lệnh. Người tài xế thở phào nhẹ nhõm khi được đỗ xe. Anh để lại chìa khóa trong ổ điện, đặt tất cả chế độ phanh, cho xe tải vào số trước khi ra ngoài. Ai đó sẽ lái nó ra khỏi máy bay ở đầu bên kia đất nước. Nhân viên bốc xếp chính và 6 người phi hành đoàn ngay lập tức trở nên bận rộn. Họ tháo dây cáp thép ra khỏi rơ mooc và máy kéo, buộc chặt xe tải trong buồng máy. Hàng hóa không ổn định là nguyên nhân chết người của vụ tai nạn máy bay, đấy là chưa kể chiếc C – 5 này còn không có ghế phóng.
Nhân viên bốc xếp chính nhìn phi hành đoàn mặt đất làm việc với vẻ hài lòng và bước đến chỗ phi công. Dù danh tiếng của C – 5 không mấy huy hoàng nhưng viên trung sĩ 25 tuổi này lại rất thích nó.
– Đại úy, cái quỷ gì vậy?
– Nó gọi là DSRV – deep submergence rescue vehicle, trung sĩ, thuyền cứu hộ chìm sâu.
– Thưa, chữ Avalon được viết ở mặt sau.
Viên trung sĩ chỉ ra.
– Ừ, đó là tên của nó, một kiểu cứu hộ tàu ngầm. Nếu tàu ngầm có vấn đề gì dưới nước thì loại thuyền này có thể được sử dụng để cứu hộ thủy thủ tàu ngầm.
– Ồ. viên trung sĩ ngạc nhiên. Anh đã vận chuyển xe tăng, máy bay trực thăng, hàng hóa thông thường, có lần còn cả một tiểu đoàn binh lính.
– anh vẫn nghĩ chiếc máy bay Galaxy này là của mình – . Đây là lần lần đầu tiên anh chở cả một con tàu. Anh nghĩ nếu nó có một cái tên thì chính là tàu. Khốn khiếp thật, chiếc Galaxay có thể làm được mọi việc.
– Chúng ta mang nó đi đâu vậy, sir?
– Trạm không quân hải quân Norfolk và tôi chưa bao giờ đến đó. Viên phi công kiểm tra các quy trình an toàn một cách rất cẩn thận. 12 sợi cáp thép đã được buộc chặt, cùng với 12 sợi cáp thép khác nữa vào đúng vị trí, chúng được nối chặt với nhau để không bị lệch.
– Hành trình sẽ kéo dài khoảng 5 giờ 40 phút, vừa đủ hết toàn bộ nhiên liệu. Chúng ta lại không thể mang theo nhiên liệu phụ. Cầu chúa phù hộ hôm nay, trước khi hạ cánh thời tiết sẽ không xấu. Sau khi nghỉ ngơi một ngày ở Norfolk, tôi sẽ quay lại vào sáng thứ hai.
– Quân của anh đã làm việc rất nhanh. sĩ quan hải quân cao cấp, thượng úy Ames, bước tới.
– vâng, thượng úy, còn 20 phút nữa. viên phi công kiểm tra đồng hồ.
– Chúng ta có thể cất cánh đúng giờ.
– Không cần vội, đại úy. Nếu thứ này bay theo chuyến bay thì chúng ta sẽ mất cả ngày với nó. Tôi ngồi ở đâu?
– Khoang phía trước phía trên, ngay sau buồng lái, có thể chứa được khoảng 15 người. thượng úy Ames biết điều này nhưng không nói rõ. Ông đã bay cùng DSRV dọc theo Đại Tây Dương rất nhiều lần và vượt qua cả Thái Bình Dương, lần nào ông chả dùng các chiếc C – 5 khác nhau.
– cho tôi hỏi chuyện lớn gì đang xảy ra vậy? Viên phi công hỏi.
– Tôi không biết. Ames nói.
– Họ muốn tôi và đứa bé này đến Norfolk ngay lập tức.
– Anh thực sự đưa thứ bé nhỏ này lặn xuống nước thật ạ? viên bốc xếp chính hỏi.
– Tôi được trả lương để làm điều đó mà. Tôi đã sử dụng nó lặn sâu đến 4800 feet rồi đấy, gần 1 dặm. Ames trả lời đầy tự hào.
– Một dặm dưới nước ư Chúa ơi à vâng xin lỗi, sir, ý tôi là dưới nước áp lực rất cao, phải không ạ?
– Không hẳn. Trước đây tôi đã dùng thuyền cứu hộ Trieste để lặn xuống 20.000 feet. Thế giới dưới nước rất đẹp, anh sẽ nhìn thấy đủ các loại cá lạ lùng. Dù Ames là một sỹ quan tàu ngầm có năng lực nhưng niềm yêu thích số một của ông là nghiên cứu. Ông có bằng tốt nghiệp ngành đại dương học và đã từng chỉ huy hoặc phục vụ trên tất cả các tàu cứu hộ của hải quân, ngoại trừ tàu cứu hộ chìm sâu NR – 1 chạy bằng năng lượng hạt nhân…
– Đương nhiên nếu xảy ra chuyện gì thì áp lực của nước đủ để giết người, tuy nhiên, nó xảy ra trong nháy mắt và anh chả biết được đâu. Nếu anh có hứng thú thì lúc nào dạo một vòng nhé, tôi có thể sắp xếp. Thế giới dưới đáy biển là độc nhất vô nhị đấy.
– Vâng thưa ngài. viên trung sĩ quay lại mắng quân của mình.
– Ông đang đùa. viên phi công nhận xét.
– Sao không? Nó không phải chuyện lớn lao gì. Tôi thường xuyên đưa dân thường xuống biển suốt. và tin tôi đi, so với việc anh lái con cá voi trắng này tiếp nhiên liệu giữa không trung thì thuyền cứu hộ an toàn hơn nhiều.
– À vâng. viên phi công nghi ngờ gật đầu. Anh đã làm những việc như tiếp nhiên liệu giữa không trung hàng trăm lần, điều này hoàn toàn bình thường, nhưng điều kỳ lạ là một số người lại coi đó là nguy hiểm. Tất nhiên là phải cẩn thận, nhưng chẳng phải bạn cũng cần phải cẩn thận mỗi sáng lái xe ra khỏi nhà hay sao? Anh nghĩ, nếu xảy ra sự cố với loại tàu ngầm nhỏ này thì người bên trong sẽ bị nghiền nát, thậm chí tôm còn chả thèm ăn.
– Ông không lặn xuống một mình đó chứ?
– Không, loại thuyền này thường được chở bằng tàu cứu hộ tàu ngầm, Pigeon hoặc Ortolan. Đôi khi dùng cả tàu ngầm. Đồ chơi trên xe kéo được được gọi là mặt bích. Sử dụng nó để có thể được cập vào bằng cửa thoát hiểm ở boong sau của tàu ngầm, và sử dụng tàu ngầm để đưa chúng tôi đến vùng biển được chỉ định.
– Lần này công việc phải làm diễn ra ở Bờ Đông à? Cá cược tốt đấy nhưng tôi vẫn chưa nhận được thông báo chính thức. Báo chí nói người Nga đang mất một tàu ngầm. Nếu vậy thì chúng ta có thể phải xuống đó xem thử, có lẽ là cứu hộ những người sống sót. Chúng ta có thể cứu được 20 – 25 người cùng lúc và mặt bích của tàu này được thiết kế vừa với cả cửa của tàu ngầm Nga lẫn của chúng ta.
– Cùng kích cỡ à?
– Về cơ bản là giống nhau. Ames cau mày.
– Chúng ta dự kiến các loại tai nạn có thể xảy đến mà, thú vị thật.
…
Bắc Đại Tây Dương.
Nửa giờ trước chiếc máy bay chiến đấu YAK – 36 đã bay ra khỏi hàng không mẫu hạm KIROV. Ban đầu nó được dẫn đường bởi con la bàn quay hồi chuyển, và sau đó nó được dẫn đường bằng thiết bị điện tử (ESM) gắn trên bộ ổn định thẳng đứng của máy bay. Nhiệm vụ của Trung tá Viktor Sharov không dễ dàng gì. Anh được lệnh tiếp cận máy bay B – 3A Sentry của Mỹ, một trong những máy bay đã theo dõi Hạm đội Liên Xô suốt 3 ngày qua. Chiếc máy bay thuộc Hệ thống kiểm soát và cảnh báo trên không (AWACS – airborne warning and control system) đã cẩn thận bay vòng ngoài xa tầm bắn của SAM nhưng đủ gần để duy trì tầm bao phủ liên tục toàn bộ hạm đội Liên Xô, và sử dụng radio để thông báo cho sở chỉ huy về các hạm đội bất kỳ lúc nào. Giống như một tên trộm đang theo dõi căn hộ của ai đó nhưng chủ nhà không làm gì được.
Nhiệm vụ của Sharov là chống lại máy bay Mỹ nhưng không khai hỏa, tất nhiên rồi. Đây là mệnh lệnh rõ ràng từ Đô đốc Strabo chỉ huy tàu KIROV. Máy bay ném bom YAK – 36 mang theo hai tên lửa không đối không tầm nhiệt Atoll mà anh chắc chắn sẽ để cho bọn đế quốc xem. Anh và đô đốc kỳ vọng việc này sẽ dạy cho bọn đế quốc một bài học: Hải quân Liên Xô không thích máy bay của bọn đế quốc hoạt động trong khu vực này. Nếu không, tai nạn chắc chắn sẽ xảy ra.
Nhiệm vụ thật khó khăn. Để tránh bị radar trên không của máy bay Mỹ phát hiện, Sharov phải bay ở độ cao thấp và tốc độ thấp, chỉ cách mặt nước biển Đại Tây Dương 20m. Điều này khiến anh rất dễ lạc bị nước biển bắt lên. Tốc độ bay của Sharov chỉ 200 hải lý/giờ, đây là tốc độ có mức tiêu hao nhiên liệu thấp nhưng lượng nhiên liệu tối đa mà máy bay có thể tải được cũng chỉ đủ giúp anh hoàn thành nhiệm vụ. Máy bay không thể dừng lại trên không và lao xuống sóng. Mặt biển mịt mù sương và tầm nhìn chỉ còn vài km. Điều này có khi còn tốt hơn, anh nghĩ. Anh đặc biệt được tuyển chọn cho nhiệm vụ khó khăn này, vì Sharov là một trong số ít các phi công ở Liên Xô có kinh nghiệm bay siêu thấp. Tuy vậy, khởi đầu của anh không phải là phi công hải quân. Lúc đầu anh lái trực thăng ở tiền tuyến Afghanistan, sau 1 năm đầy máu lửa anh chuyển sang máy bay cánh cố định. Vì thường xuyên truy lùng bọn cướp và phản cách mạng ẩn náu trong rừng già núi sâu như chuột sợ nước nên Sharov là chuyên gia và bay thấp trên mặt đất. Kỹ năng này khiến hạm đội chú ý và được chuyển thẳng sang hạm đội hải quân mà chả được hỏi ý kiến gì. Nhưng sau vài tháng, anh cảm thấy hài lòng. So với cứ không quân tiền tiêu giáp biên giới Trung Quốc trước đây, mức lương và đãi ngộ hiện tại rất ấn tượng. Giống như hàng trăm phi công trên tàu sân bay Liên Xô khác, anh có thể đã mất cơ hội được lái chiếc MiG – 27. Tuy nhiên sau khi chế tạo thành công chiếc hàng không mẫu hạm cỡ lớn, anh vẫn có thể có cơ hội lái con chim tuyệt vời này ở phiên bản dành cho hải quân. Sharov có thể đợi đến ngày đó, cùng với một số nhiệm vụ thành công như lần này, anh có thể có quyền chỉ huy phi đội của chính mình.
Mình cần dừng mơ giữa ban ngày đi – nhiệm vụ này quá quan trọng. Đây là một chuyến bay thật, trước đây anh chưa từng chiến đấu với người Mỹ trên không, khi ở Afghanistan, anh chỉ biết đến sức mạnh do vũ khí Mỹ sản xuất thông qua người Afghanistan. Anh mất nhiều bạn bè vì số vũ khí này, một vài người trong số họ sống sót trong các vụ máy bay rơi thì cũng bị giết chết man rợ bởi phiến quân Afghanistan theo cách mà ngay cả quân Đức cũng buồn nôn. Thật tốt khi có cơ hội đích thân dạy cho bọn đế quốc một bài học.
Tín hiệu radar ngày càng mạnh hơn. Dưới ghế phóng của anh có máy ghi âm, nó liên tục ghi lại những tín hiệu đặc biệt từ máy bay Mỹ. Dựa trên những tín hiệu này, các nhà khoa học Liên Xô sẽ có thể thiết kế thiết bị gây nhiễu khiến radar của Mỹ trở nên mù lòa. Chiếc máy bay của Mỹ chỉ là chiếc máy bay chở khách 707 được cải tiến sao có thể đấu với một phi công chiến đấu thứ thiệt chứ.
Sharov kiểm tra bản đồ. Anh phải tìm thấy máy bay địch càng sớm càng tốt. Tiếp theo, anh kiểm tra nhiên liệu, vài phút trước anh đã hết thùng ngoài cuối cùng và giờ chỉ còn lại nhiên liệu ở thùng trong. Động cơ phản lực rất tốn nhiên liệu và anh phải chú ý. Anh quyết định sẽ dành nhiên liệu cho 5 hoặc 10 phút cuối để bay lại tàu mẹ. Vấn đề này không làm khó anh anh đã hạ cánh trên tàu sân bay hàng trăm lần.
Kia rồi! Đôi mắt chim ưng của anh phát hiện ra những phản xạ kim loại lướt qua hướng 1 giờ trên bầu trời. Sharov kéo cần điều khiển trở lại một cách dễ dàng, chiếc Forger tăng tốc lao lên. Một phút sau, anh đã bay lên 2000m và giờ có thể nhìn thấy rõ ràng chiếc Sentry với thân máy bay sơn màu xanh lam hòa lẫn với bầu trời mờ mịt. Anh ta tiếp tục bám đuôi. Sharov thật may mắn, vì máy bay của anh nằm ngay sau cánh đuôi của Sentry nên nó không nhìn thấy, đó là điểm mù của anten radar quay trên không của máy bay. Hoàn hảo! Anh sẽ bay sườn nó vài lần để phi hành đoàn đối phương nhìn thấy tên lửa tầm nhiệt Atolls và…
Trong khoảnh khắc Shirov bất chợt nhận thấy một chiếc máy bay gần đó 2 chiếc. Bay song song bên trái và phải của anh, cách 50m, một cặp máy bay chiến đấu F – 15 Eagle của Mỹ. Một phi công đeo kính bảo hộ nhìn chằm chằm vào anh ta – YAK – 106, YAK – 106 vui lòng trả lời. Âm thanh từ radio một băng tần (SSB – single side band) phát bằng tiếng Nga chuẩn. Sharov coi như không nghe thấy. Họ đã đọc được số hiệu máy bay của anh ta trước cả khi anh biết họ hiện diện ở đó – 106, 106, bạn đang tiếp cận một chiếc Sentry của hải quân Hoa Kỳ. Vui lòng thông báo danh tính và ý định của bạn. Máy bay của bạn đã lạc vào tuyến đường của chúng tôi và chúng tôi rất khó chịu. Vì vậy chúng tôi cử 3 máy bay theo dõi bạn cả trăm km vừa qua.
3 cái? Sharov xoay đầu nhìn quanh. Chiếc Eagle thứ ba đang bay phía sau đuôi, cách 40m, bốn tên lửa không đối không mang số hiệu.
– Sáu.
– 106, người bên tôi có sự tôn trọng sâu sắc đối với khả năng bay ở tầm thấp và tốc độ thấp của bạn.
Trung úy Sharov run lên vì tức giận. Anh đã bay 4000m, cách máy bay AWACS của Mỹ 8000m, cứ sau 30 giây anh lại kiểm tra 6 dụng cụ cơ bản. Anh đã nghĩ hẳn vừa rồi phi công Mỹ ẩn trong sương mù và theo dõi anh ta nhờ sự dẫn đường của radar của máy bay Sentry. Anh rủa thầm và ổn định đường bay. Anh sẽ dạy cho AWACS một bài học!
– Quay lại và rời đi 106. Một giọng nói lạnh lùng, không cảm xúc ngoại trừ một chút giễu cợt.
– 106 nếu anh không rời đi chúng tôi sẽ coi hành động này là cố tình khiêu khích. Hãy nghĩ lại, 106. Vị trí hiện tại của anh đã vượt xa tầm nhìn radar của tàu anh, nhưng vẫn chưa đi vào tầm ngắm tên lửa của tàu chúng tôi.
Sharov nhìn sang bên phải. Chiếc Eagle đã quay đầu và tách ra – chiếc bên trái cũng vậy. Đây có phải là cử chỉ để giảm bớt áp lực anh ta và mong anh ta cũng bày tỏ thái độ tương tự? Hay là họ đang dọn đường để chiếc phía sau anh.
– anh kiểm tra, nó vẫn ở đó – bắn tên lửa? Có chúa mới biết bọn đế quốc này muốn làm gì. Máy bay của anh cách xa tầm bắn tên lửa của kẻ thù ít nhất một phút. Sharov không phải hèn nhát,nhưng cũng không phải kẻ ngốc, anh kéo cần điều khiển và quay máy bay sang phải.
– cảm ơn 106. giọng nói vang lên.
– Anh thấy đấy, chúng tôi có vài thực tập sinh trên máy bay, hai trong số họ là phụ nữ và chúng tôi không muốn họ sợ hãi trong lần bay đầu tiên.
Thật không thể chịu được. Sharov giận dữ nhấn nút liên lạc nội bộ.
– Vậy anh có muốn tôi nói anh biết cách đối phó với phụ nữ không Yankee?
– Anh thật vô văn hóa, 106. giọng trả lời nhẹ nhàng.
– Có lẽ chuyến bay mặt nước dài đã khiến anh căng thẳng. Hẳn anh sắp cạn nhiên liệu rồi. Hôm nay là một ngày bay xui xẻo, hướng gió đang thay đổi và tốc độ lớn hơn. Anh có cần kiểm tra vị trí? Kết thúc.
– Không, Yankee!
– Hướng quay lại KIEV là 1 – 8 – 5. Sự thật là thế. Anh phải cẩn thận khi sử dụng la bàn ở vùng cực bắc. Anh đang ở cách xa KIEV 318.6km. Hãy cẩn thận – Có một cơn gió lạnh từ phía tây nam đang di chuyển rất nhanh. Sau một vài giờ, việc bay sẽ khó khăn hơn. Anh có cần hộ tống bay trở lại KIEV không?
– Con lợn! Sharov rủa thầm. Anh tắt radio và hối hận vì hành vi thiếu kỷ luật của mình. Anh đã cho phép mấy tên người Mỹ tổn thương lòng tự hào của mình. Giống như hầu hết các phi công lái máy bay chiến đấu, anh không thể chịu đựng được loại chuyện này.
– 106, chúng tôi không ghi âm lời cuối cùng của anh. Bây giờ tôi cử 2 máy bay Eagles dẫn đường cho anh. Họ sẽ bay theo đội hình của anh và hộ tống bạn về nhà an toàn. Một ngày vui vẻ, đồng chí. Sentry – THÁNG MƯỜI MỘT. Kết thúc.
Viên trung úy người Mỹ quay sang vị đại tá cấp trên của anh. Anh không thể giữa khuôn mặt nghiêm túc được nữa.
– Chúa ơi, tôi gần như nghẹt thở khi nói chuyện với giọng điệu này. Anh với chiếc cốc nhựa uống một ít coke.
– Hắn ta thực sự nghĩ hắn bí mật bay qua chúng tôi.
– Nếu cậu không cẩn thận thì hắn đã có thể tiến đến 1 dặm vừa tầm phạm vi bắn của Atoll và chúng ta không có quyền bắn hắn ta, phải đợi đến khi hắn bắn mới có quyền đánh trả…
– đó sẽ là một ngày tồi tệ. viên đại tá phàn nàn.
– Cắt đuôi tốt lắm, trung úy.
– Không có gì, đại tá. anh nhìn màn hình.
– Chà, hắn ta đang quay về tàu mẹ, với Cobra 3 và 4 kèm hai bên. Sau khi trở về, tên người Nga này chắc nổi điên lên mất. Dù mang bình xăng phụ nhưng chắc gần đến cực hạn. anh suy nghĩ một chút.
– Đại tá, nếu chúng làm thế một lần nữa, sẽ thế nào nếu chúng ta đề nghị hắn về nhà cùng chúng ta?
– Lấy con Forger á – để làm gì? Tôi đoán hải quân thích có một con chơi cho vui vì họ không có nhiều máy bay Ivan nhưng Forger là một đống rác.
Sharov muốn tạo tường lửa cho động cơ của mình nhưng cố kiềm chế bản thân. Hôm nay anh đã lộ nhiều điểm yếu bản thân rồi. Bên cạnh đó, chiếc YAK của anh chỉ có thể đạt đến Mach 1 khi lao xuống. trong khi chiếc Eagles có thể đạt vận tốc đó khi lao lên và nó còn quá nhiều nhiên liệu. Anh thấy họ có mang thùng nhiên liệu phụ hợp thay thế nhanh chóng (FAST – pack conformal fuel cells). Với thùng nhiên liệu này, bọn họ có thể bay qua cả một đại dương. Chết tiệt mấy tên người Mỹ và sự kiêu ngạo của chúng! Chết tiệt mấy tên tình báo Liên Xô khi nói với anh ta rằng có thể lẻn vào tiếp cận chiếc Sentry! Cứ để máy bay chiến đấu không đối không Backfires làm điều đó. Họ có thể xử lý được cái máy bay chở khách sửa đổi, bay nhanh hơn những gã hộ tống trên không này.
Mấy tên người Mỹ không nói dối về thời tiết, thâm tâm anh biết điều này. Khi gần về đến KIEV một làn gió lạnh ngắt từ đông bắc đang hình thành trên mặt nước biển. Mấy chiếc Eagles bay trở lại khi anh bắt đầu đội hình đáp. Một phi công Mỹ bay ngang qua bên sườn theo tư thế chào tạm biệt, sau đó phi lên bay về hướng bắc.
Năm phút sau Sharov trở về tàu KIEV, vẫn còn tái mặt vì giận. Ngay sau khi các bánh được chèn, anh ta đột ngột nhảy ra khỏi buồng lái và chạy như bay về phía chỉ huy phi đội.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 01 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 02 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 03 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 04 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 05 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 06 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 07 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 08 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 09 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 10 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 11 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 12 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 13 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 14 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 15 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 16 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 17 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 18 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 19 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 20 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 21 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 22 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 23 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 24 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 25 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 26 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 27 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 28 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 29 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 30 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 31 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 32 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 33 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, toàn tập tại đây.