Tom Clancy | Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ | Chương 33
Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ (The hunt for the Red October) là tiểu thuyết tình báo của Tom Clancy, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1984 và được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1990.
· 40 phút đọc.
Tàu AVALON.
Trung úy Ames quan sát tình hình xung quanh từ cửa sổ mạn trái ở mũi tàu AVALON. Một tàu ngầm lớp A (Alfa) đang ở mạn trái. Rõ ràng đuôi của nó hạ xuống trước và bị hư hại nghiêm trọng. Một cánh quạt bị gãy khỏi chân vịt, phần dưới bánh lái bị vỡ vụn. Toàn bộ đuôi tàu có thể đã bị đánh sập. Do tầm nhìn kém nên khó ước tính được mức độ hư hỏng của toàn bộ đuôi tàu.
– Từ từ tiến về phía trước. Anh nói trong khi thao tác với bộ điều khiển. Phía sau anh là một trung sĩ và một thiếu úy đang kiểm tra các dụng cụ khác nhau, chuẩn bị một cánh tay robot được tạm thời lắp vào tàu trước khi ra biển. Nó có một camera TV và đèn pha, cung cấp trường nhìn rộng hơn so với nhìn từ cửa sổ. Chiếc tàu cứu sinh lặn sâu bí mật bò về phía trước với tốc độ 1 hải lý/giờ. Mặc dù đèn pha của tàu có độ rọi một triệu, tầm nhìn vẫn còn dưới 20 yard.
Phần đáy biển ở khu vực này là một lớp đất phù sa có độ dốc mềm, xen lẫn những viên sỏi với nhiều hình dạng và kích thước khác nhau. Có vẻ như điều duy nhất cản trở tàu ngầm lớp Alfa này tiếp tục trượt về phía trước là khu vực bục chỉ huy của nó, giống như một cái nêm lao xuống đáy biển.
– Chúa ơi! viên trung sĩ phát hiện ra đầu tiên. Có một vết nứt trên con Alfa – hoặc cái gì tương tự thế.
– Tai nạn lò phản ứng. Ames nói, giọng cực kỳ bình tĩnh.
– Có thứ gì đó cháy xuyên qua thân tàu. Chúa ơi đó là titan. Toàn bộ con tàu bị cháy xuyên từ trong ra ngoài. Ở đây có một lỗ hổng khác, lỗ mở lớn hơn, rộng hơn 1 yard. Chẳng có thế lực bí ẩn nào đánh chìm con tàu này đâu các chàng trai. Hai nơi bị đốt cháy là hai khoang trực tiếp tiếp xúc. Ames quay lại nhìn máy đo độ sâu: 1,880 feet.
– Đã ghi lại tất cả chưa?
– Rồi, thuyền trưởng. kỹ sư thợ điện số 1 đáp.
– Chết tiệt thật. Những tên khốn đáng thương.
– Phải, phụ thuộc vào mục đích họ đến đây. Ames lái chiếc AVALON quanh mũi con tàu Alfa, kiểm tra bánh lái cẩn thận và điều chỉnh độ cao của tàu chếch xuống phần đầu con tàu ngầm đã chết.
– Có nhìn thấy bằng chứng gì về việc gãy thân tàu không?
– Không. thiếu úy trả lời.
– chỉ có 2 vết cháy xuyên qua, không rõ lý gì?
– Hội chứng Trung Quốc đã thành hiện thực. Cuối cùng nó cũng xảy ra với ai đó.Ames lắc đầu. Nỗi lo nhất của hải quân về tàu ngầm hạt nhân không khác gì hơn là sự an toàn của lò phản ứng.
– Đặt đầu do lên thân tàu xem có ai còn sống không.
– Vâng. kỹ sư điện bắt đầu điều khiển cánh tay robot Waldo và Armes cố gắng để cho AVALON đứng yên hoàn toàn, cả hai việc đều không dễ dàng gì. Tàu cứu hộ gần như đã dừng trên bục thân tàu ngầm. Nếu có người sống sót thì sẽ ở Phòng điều khiển hoặc mũi tàu, không ai có thể sống sót ở phía sau tàu.
– OK, tôi có thấy một chuyển động.
Cả 3 người chăm chú lắng nghe, hy vọng phát hiện ra điều gì đó. Công việc của họ là tìm kiếm và cứu nạn và họ đang thực hiện nhiệm vụ cực kỳ nghiêm túc và tập trung cao độ.
– Có lẽ họ đang ngủ. viên thiếu úy bật sonar định vị. Sóng cao tần vọng vào 2 nửa tàu ngầm, âm thanh đủ lớn để đánh thức cả người chết, nhưng vẫn không có động tĩnh gì. Bình khí oxy trên tàu POLTAVSKIY đã cạn từ một ngày trước.
– Thế là hết. Ames bình tĩnh. Anh điều khiển tàu lặn sâu về phía trên trong khi kỹ sư điện đang điều khiển cánh tay robot, tìm kiếm một cái lỗ có thể đặt đầu dò sonar. HỌ sẽ quay lại đây lần nữa khi điều kiện thời tiết phía trên biển tốt hơn. Hải quân sẽ không từ bỏ cơ hội tìm hiểu thêm về tàu ngầm lớp Alfa này. Tàu GLOMAR EXPLORER vẫn đang để đâu đó ở Bờ Tây. Liệu nó có thể được sử dụng trong trường hợp này? Ames đặt cược vào khả năng này luôn.
– AVALON, AVALON, đây là SCAMP… Giọng liên lạc có chút lạc điệu khi nghe dưới nước, nhưng vẫn nghe được.
– …quay trở về tức thì. Xin trả lời.
– SCAMP, đây là AVALON. Đang trên đường về. Tàu SCAMP vừa nhận được điện tín ELF và tạm thời trôi xuống độ sâu của kính tiềm vọng để nhận lệnh hoạt động FLASH (Lệnh chiến đấu khẩn cấp).
– tiến nhanh ở tốc độ cao nhất đến 33N75W. Điện tín không giải thích lý do tại sao.
Trụ sở CIA.
– CARDINAL vẫn ở lại với chúng ta. Moore thông báo cho Ritter.
– Cảm ơn Chúa. Ritter ngồi xuống.
– Một bức điện vừa được chuyển đến. Lần này ông ấy không cố tử tự bằng cách cung cấp thông tin cho chúng ta nữa. Có lẽ thời gian ở bệnh viện đã khiến ông ta sợ rồi.Tôi đã đưa ra một đề nghị khác với ông ta.
– Lại nữa à?
– Bob, chúng ta phải đưa ra đề nghị.
– Tôi biết. Chính tôi cũng phải làm điều này vài năm trước, anh biết rồi. Lão già đó chỉ không muốn rửa tay gác kiếm thôi. Anh biết chuyện này diễn ra thế nào mà, một số người đã kiếm được nhiều nhờ việc này. Hoặc có thể ông ta không làm việc này vì cơn thịnh nộ của mình nữa…tôi chỉ vừa nhận được cuộc gọi từ Thượng nghị sĩ Donaldson. Donaldson là chủ tịch Ủy ban Đặc biệt Tình báo Thượng viện.
– Ồ?
– Ông ấy muốn biết về những gì chúng ta đang biết về chuyện đang xảy ra. Ông ta không tin câu chuyện giải cứu và nghĩ chúng ta biết gì đó khác.
Thẩm phán Moore ngả người ra sau.
– Tôi tự hỏi ai đã khiến ông ta có ý tưởng này?
– Phải, chúng ta nên điều tra một chút Tôi nghĩ đã đến lúc rồi. đây là cơ hội tuyệt vời.
Hai quan chức cấp cao đã thảo luận về vấn đề này trong một giờ. Trước khi Ritter rời đến Quốc hội, họ đến báo cáo trước với Tổng thống.
Tại WASHINGTON D.C.
Donaldson cố tình để Ritter đợi 15 phút ở văn phòng bên ngoài trong khi ông ta đang xem hồ sơ. Ông ta muốn Ritter biết vị trí của mình. Một vài người trong DDO (chính phủ) đã lưu ý về sự rò rỉ của Quốc hội đã khiến vị Thượng nghị sĩ đến từ Connecticut như bị chạm nọc và ông cảm thấy điểm quan trọng là phải cho các nhân viên do chính phủ tuyển dụng biết sự khác biệt giữa họ và các đại diện của nhân dân.
– Xin lỗi vì đã bắt anh đợi, anh Ritter. Donaldson không đứng dậy, cũng không có ý định bắt tay.
– Không sao, thưa ngài. Tôi có cơ hội đọc một cuốn tạp chí. Theo lịch trình làm việc thì tôi chẳng mấy khi có nhiều thời gian như thế. Họ bắt đầu vượt rào so găng ngay từ phút đầu tiên.
– Vậy, Liên Xô đang định làm gì?
– Thượng nghị sĩ, trước khi nói về chủ đề này, tôi phải làm rõ điều này: Tôi phải báo cáo cuộc họp này với Tổng thống. Thông tin này chỉ nói cho một mình ngài, không ai khác được nghe. Không một ai. Lệnh này đến từ Nhà Trắng.
– Ủy ban của tôi còn có các thành viên khác, ông Ritter.
– Thưa ngài, nếu không có được lời hứa của ngài, với tư cách một quý ông. Ritter mỉm cười nói thêm.
– Tôi sẽ không tiết lộ thông tin này. Đây là lệnh tôi nhận được. Tôi là nhân viên chính phủ, Thượng nghị sĩ. Tôi nhận lệnh từ tổng thống. Ritter hy vọng máy ghi âm của ông đã ghi lại hết những lời này.
– Đồng ý. Donaldson miễn cưỡng. Ông tức giận vì phải tuân thủ sự hạn chế ngu ngốc này, nhưng mặt khác lại vui mừng vì được nghe thông tin.
– Nói đi.
– Thành thật mà nói, thưa ngài, chúng tôi không biết chính xác những gì đang diễn ra. Ritter nói.
– Ồ, vậy ông đang bắt tôi thề giữ bí mật để tôi không thể nói với ai đó rằng CIA không biết chuyện quái gì đang xảy ra?
– Ý tôi là chúng tôi không biết chính xác chuyện gì đã xảy ra. Nhưng chúng tôi biết một số điều. Phần lớn thông tin tình báo của chúng tôi đến từ người Israel và một số từ người Pháp. Từ hai kênh này, chúng tôi biết được rằng có một vấn đề lớn với hải quân Liên Xô.
– Tôi đã biết điều đó. Họ mất một chiếc tàu ngầm.
– Ít nhất là một, nhưng đó không phải tất cả chuyện đang xảy ra. Ai đó, tôi nghĩ, đã chơi chiêu trong Ban chỉ huy tác chiến của Hạm Đội Phương Bắc của Liên Xô. Tôi không dám nói chắc, nhưng tôi nghĩ đó là người Ba Lan .
– Tại sao lại là người Ba Lan?
– Tôi không biết chắc chắn chuyện xảy ra thế nào, nhưng cả điệp viên Pháp và Israel đều có liên hê tốt với đám người Ba Lan và người Ba Lan có liên hệ lâu dài với bên Liên Xô. Tôi biết.
– ít nhất là tôi nghĩ rằng tôi biết – bất kể thế nào thì tin tức này không đến từ bất kỳ cơ quan tình báo phương tây nào.
– Vậy, chuyện gì đang xảy ra? Donaldson hỏi.
– Dự đoán tốt nhất của chúng tôi là có ai đó đã giả mạo ít nhất một tài liệu, có lẽ nhiều nhất là ba tài liệu, với mục đích gây rối Hải quân Liên Xô – nhưng bất kể nó là gì, thì mọi thứ đang vượt quá tầm kiểm soát. Rất nhiều người đang cố sức để che đậy dấu vết, người Israel nói vậy. Theo dự đoán, tôi nghĩ họ sẽ xoay sở để thay đổi một số lệnh hoạt động của tàu ngầm, đồng thời giả mạo một bức thư của một thuyền trưởng đang đe dọa họ để phóng tên lửa đánh chìm tàu của ông ta. Điều đáng kinh ngạc là Liên Xô đang thực hiện điều đó thật. Ritter cau mày.
– Mặc dù chúng tôi có vài thông tin không chắc chắn việc đó, nhưng chúng tôi chắc chắn rằng, có ai đó, có lẽ là người Ba Lan, đã lập một cái bẫy bẩn thỉu tuyệt vời để người Nga nhảy vào .
– Không phải là chúng ta à? Donaldson hỏi thẳng.
– Không, thưa ngài, hoàn toàn không! Nếu chúng ta cố gắng làm trò nào như thế – ngay cả nếu thành công, mà chưa chắc đã thành công ý chứ – họ sẽ làm điều tương tự với chúng ta. Ngài không thể bắt đầu một cuộc chiến theo cách đó được, và ngài biết tổng thống không bao giờ cho phép điều đó.
– Nhưng ai đó ở CIA có thể không quan tâm tổng thống nghĩ gì.
– Không bao giờ có ở bộ phận của tôi. Tôi có thể lấy đầu ra bảo đảm. Ngài có thực sự nghĩ rằng nếu chúng ta tiến hành một điệp vụ như thế này và che dấu nó thành công không? Ôi trời, Thượng nghị sĩ, tôi thực sự mong ước chúng ta có thể.
– Tại sao lại là người Ba Lan? Và tại sao họ có thể làm được điều này?
– Từ lâu, chúng tôi đã nghe nói về những người bất đồng chính kiến trong cơ quan tình báo của họ. Có những người không thích Liên Xô cho lắm. Ngài có thể thấy một đống lý do giải thích tại sao. Họ có một lịch sử bất hòa, và người Nga dường như quên rằng những người Ba Lan luôn coi người Ba Lan là nhất, con người cộng sản đứng thứ hai. Cá nhân tôi đoán, vấn đề này có liên quan đến Giáo hoàng, không hoàn toàn do sự kiểm soát của quân đội. Chúng ta biết rằng người bạn cũ Andropov của chúng ta đã khởi xướng và lặp lại sự việc của Henry II / Becket. Đức Giáo hoàng đã nâng cao danh tiếng của Ba Lan và đóng góp cho đất nước. Ngay cả những người Cộng sản Ba Lan cũng nghĩ rằng đây là một điều tốt. Nhưng vào lúc này, mấy tên Ivan lại định chia cắt toàn bộ Ba Lan.
– ngài có nghĩ họ bị điên không? Mọi người luôn bỏ qua đẳng cấp tình báo Ba Lan. Họ là những người đã phá vỡ mật mã Enigma vào năm 1939, không phải người Anh. Mẹ kiếp, họ hoạt động hiệu quả đấy, và lý do cũng giống như của người Israel, họ có kẻ thù ở cả phương Đông và phương Tây. Tình hình này thôi thúc họ phải có những nhân viên gián điệp giỏi. Chúng tôi xác nhận rằng, rất nhiều người Ba Lan đã đến làm việc tại Liên Xô để đổi lấy sự hỗ trợ kinh tế của Narmonov cho Ba Lan. Chúng tôi cũng biết rằng có rất nhiều kỹ sư Ba Lan làm việc tại các bến cảng của Liên Xô. Tôi thừa nhận rằng điều này hơi nực cười, hai nước có lịch sử hàng hải ngắn, nhưng người Ba Lan đã chế tạo ra nhiều tàu thương mại cho Liên Xô Hiệu suất làm việc của xưởng đóng tàu của họ cao hơn của Liên Xô, và gần đây họ bắt đầu hỗ trợ kỹ thuật cho xưởng đóng tàu hải quân, chủ yếu là về mặt kiểm soát chất lượng.
– Vậy thì cơ quan tình báo Ba lan đã chơi Liên Xô một vố. Donaldson kết luận.
– Gorshkov là một trong những gã cứng rằng, không cho người khác can thiệp, phải không?
– Đúng, nhưng có lẽ ông ta không phải là mục tiêu chính. Mục đích của cái bẫy này chỉ là làm cho Moscow lúng túng. Trên thực tế, điệp vụ tấn công vào Hải quân Liên Xô không có nhiều ý nghĩa. Mục đích là gây ra sự hỗn loạn trong hàng ngũ cấp cao trong quân đội, và bây giờ các nhà lãnh đạo quân sự cấp cao của họ đang tập trung tại Moscow. Chúa ơi, ước gì tôi biết chuyện gì đang thực sự xảy ra! Từ năm phần trăm tảng băng nổi chúng ta biết, điệp vụ này thực sự xuất sắc, trở thành bài học vỡ lòng thần thoại cho các điệp viên. Chúng tôi vẫn đang thu thập thông tin để tìm hiểu. Người Anh, người Pháp và Israel cũng vậy – Benny Herzog của Mossad có thể sẽ phát điên. Người Israel thường sử dụng mánh này với láng giềng, thường xuyên luôn. Họ chính thức thông báo với chúng tôi là ngoài những thông tin đã tiết lộ ra thì họ không biết gì nữa. Có lẽ vậy. Hoặc có thể họ hỗ trợ kỹ thuật cho người Ba Lan – khó nói lắm. Nhưng chắc chắn hải quân Liên Xô là mối đe dọa với Israel. Nhưng chúng tôi cần thêm thời gian để xác nhận điều này. Trong vấn đề này, người Israel hơi giả tạo.
– Nhưng anh không biết chuyện gì đang xảy ra, chỉ biết nó xảy ra thế nào và tại sao.
– Thượng nghị sĩ, mọi chuyện không dễ dàng như vậy. Hãy cho chúng tôi chút thời gian. Hiện tại, chúng tôi thậm chí không muốn biết quá nhiều. Nói chung, có ai đó đã tung một số tin khống trong hải quân Liên Xô, mục đích có lẽ chỉ là lung lạc tinh thần nhưng cuối cùng sự việc lại vượt quá tầm tay. Cách thức và lý do tại sao nó xảy ra, chúng tôi không biết. Nhưng bất kể là gì, ngài có thể chắc chắn rằng họ đang làm mọi thứ để che dấu dấu vết… Ritter muốn Thượng nghị sỹ hiểu đúng điều này.
– Nếu Liên Xô tìm ra ai là việc này thì họ sẽ trả thù rất tàn nhẫn – phụ thuộc vào hậu quả của việc này. Trong vài tuần tới chúng ta có thể biết nhiều thông tin hơn. Người Israel nợ chúng ta một số điều, và họ sẽ cho chúng ta biết tất cả.
– vì vài chiếc F – 15 và một đống xe tăng nữa. Donaldson chỉ ra.
– Giá rẻ hơn.
– Nhưng nếu chúng ta không liên quan thì sao phải giữ bí mật?
– Ngài đã hứa với tôi, Thượng nghị sĩ. Ritter nhắc ông ta.
– Có một điều, nếu điều này lộ ra, liệu Liên Xô có tin là chúng ta không liên quan không? Không đâu. Chúng ta đang cố tiến hành cuộc chơi tình báo văn minh, ý tôi là chúng ta và họ vẫn là kẻ thù, nhưng việc chi tiêu cho chiến tranh tình báo sẽ tốn kém quá nhiều và nguy hiểm cho cả hai bên. Lý do nữa là chúng ta biết chuyện này xảy ra thế nào, chúng ta có thể tận dụng nó theo hướng có lợi cho chúng ta.
– Những lý do này thật mâu thuẫn.
Ritter mỉm cười.
– Trò chơi tình báo là như vậy đấy. Nếu chúng ta tìm ra ai đứng sau việc này chúng ta có thể sử dụng nó làm lợi thế. Trong mọi trường hợp, Thượng nghị sĩ, ông đã hứa và tôi sẽ báo cáo việc này với tổng thống khi quay trở lại Langley.
– Tốt lắm. Donaldson đứng lên. Cuộc họp kết thúc.
– Tôi tin rằng anh sẽ cập nhật cho chúng tôi những thông tin về tình hình sắp tới.
– Đó là những việc chúng tôi nên làm, thưa ngài. Ritter đứng dậy.
– Chắc chắn thế. Cảm ơn anh đã ghé thăm. Họ cũng không bắt tay lần này.
Ritter đi bộ thẳng ra sảnh mà không qua phòng tiếp tân. Ông dừng lại để nhìn vào giếng trời của tòa Hart (tòa nhà quốc hội). Nó nhắc ông nhớ đến khách sạn Hyatt ở địa phương. Ông không đi thang máy như thường lệ mà đi bộ xuống tầng 1. Cũng may ông ra đúng lúc, xe đã đợi sẵn bên ngoài và ông bảo tài xế lái đến FBI.
– Không phải hoạt động của CIA? Peter Henderson, trợ lý của Thượng nghị sĩ hỏi lại.
– Không. Tôi tin ông ta. Donaldson nói.
– Ông ta đủ thông minh để không bịa mấy chuyện thế này.
– Tôi không hiểu tại sao Tổng thống không cắt chức ông ta. Henderson bình luận.
– Tất nhiên, loại người như ông ta, có lẽ sẽ phù hợp với công việc ông ta đang làm. Thượng nghị sĩ đồng ý.
Khi Henderson trở lại văn phòng mình, hắn kéo tấm rèm che cửa sổ lại, dù mặt trời đang chiếu sáng phía bên kia tòa nhà. Một giờ sau, tài xế công ty taxi Black & White đi qua nhìn lên cửa sổ và ghi nhớ.
Henderson làm việc muộn vào tối hôm đó. Tòa nhà Hart hầu như trống vắng, hầu hết Thượng nghị sĩ đã ra về. Donaldson chỉ ở đó vì việc cá nhân và theo dõi một số việc. Với tư cách là Chủ tịch ủy ban đặc biệt về Tình báo, ông ta có nhiều việc phải làm hơn những gì ông thích làm vào mùa này trong năm. Henderson đi thang máy đến sảnh đợi, ăn mặc giống hệt như một trợ lý quốc hội cấp cao – bộ vest ba mảnh màu xám, cặp da lịch lãm, kiểu tóc chuẩn và rời khỏi tòa nhà với những bước nhẹ nhàng. Một chiếc taxi công ty Black & White trong ngõ đi tới và dừng lại để đón anh ta lên xe.Henderson bước vào.
– Watergate. anh ta nói và yên lặng cho đến khi taxi được được vài tòa nhà. Henderson có một căn hộ một phòng ngủ giá rẻ ở khu phức hợp Watergate, nghĩ lại thì nó như một sự chế giễu đối với bản thân anh ta. Anh ta không boa thêm cho tài xế khi đến nơi. Ngay khi anh ta đến cửa thì một cô gái bước vào trong taxi. Taxi ở Washington thường rất bận rộn vào mỗi sáng sớm.
– Đến Đại học Georgetown. cô nói, đó là một người đàn bà trẻ xinh đẹp với mái tóc nâu và tay cầm một chồng sách.
– Đi học đêm à? người tài xế hỏi, kiểm tra gương.
– Ôn bài kiểm tra. cô gái nói, giọng có chút lo lắng.
– tâm lý.
– Cách tốt nhất để đối phó với các bài kiểm tra là thư giãn. viên tài xế nói.
Đặc vụ Hazel Loomis vụng về cầm cuốn sách, ví rơi xuống sàn xe.
– Ồ, chết tiệt. cô cúi xuống nhặt nó lên, và trong lúc đó kịp móc chiếc máy ghi âm mà một đặc vụ khác nhét dưới ghế xe trước đó.
15 phút sau taxi đến trường đại học. Giá cuốc xe là 3.85usd. Loomis đưa cho viên tài xế 5usd và nói anh ta cứ giữ tiền thừa. Cô băng qua khuôn viên trường và lên một chiếc xe Ford nhỏ đến thẳng tòa nhà J. Edgar Hoover. Nhiều thông tin được gửi về đây – và rất dễ dàng!
– Luôn là thế, khi con gấu đã trong tầm nhìn. viên công tố viên phụ trách rẽ trái sang đại lộ Pennsylvania Avenue.
– Cái khó là tìm ra con gấu đầu đàn chết tiệt kia.
Lầu Năm Góc.
– Thưa các ngài tôi mời các anh đến đây hôm nay vì các anh đều là những sĩ quan tình báo chuyên nghiệp đã nghiên cứu về tàu ngầm và người Nga. Davenport nói với bốn sĩ quan đang ngồi trong văn phòng ông.
– Tôi cần những sĩ quan có trình độ như các anh. Đây là một nhiệm vụ có mức độ nguy hiểm nhất định – mức độ nguy hiểm khó ước tính. Chỉ có một điểm tôi có thể khẳng định là đây là một cơ hội trong mơ dành cho các sĩ quan tình báo – nhưng là loại giấc mơ mà các anh chẳng bao giờ được chia sẻ cùng ai. Mà chúng ta đã quen với việc đó rồi phải không? Davenport cười ngập ngừng.
– như người ta thường nói trong phim, nếu anh muốn tham gia, ok làm ngay, nếu không muốn thì hãy rời đi ngay lúc này, không có gì phải hối tiếc. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải là chuyên gia can đảm chấp nhận rủi ro để thực hiện.
Tất nhiên là không ai rời đi. Chẳng ai trong phòng này muốn bị coi là kẻ hèn nhát. Nhân tiện, người ta đồn Davenport có trí nhớ rất tốt. Những người ngồi đây đều là sĩ quan chuyên nghiệp. Một trong những bù đắp cho việc mặc áo lính và kiếm được ít tiền hơn là khả năng bị giết ít hơn so với hoạt động độc lập ở thế giới thực.
– Cảm ơn các anh. Tôi nghĩ các anh sẽ thấy điều này rất đáng để nỗ lực. Davenport đứng dậy và đưa cho mỗi người một phong bì.
– Các anh sẽ sớm có cơ hội để kiểm tra tàu ngầm tên lửa Liên Xô – từ bên trong… 4 cặp mắt chớp sáng khi nghe những lời này.
Tại vị trí 33 độ vĩ Bắc, 75 độ kinh Tây.
Tàu ngầm ETHAN ALIEN đã ở đúng vị trí định trước hơn 30 giờ. Nó đang lặn ở độ sâu 200 feet dưới nước và chạy vòng quanh bán kính 5km. Cũng không vội vàng gì nên tàu ngầm chạy với tốc độ chậm nhất, lò phản ứng chỉ chạy với 10% công suất. Viên sĩ quan hậu cần đang giúp nhà bếp.
– Lần đầu tiên tôi làm việc này trên tàu ngầm đấy. Một trong những sĩ quan tàu ALIEN làm việc như một đầu bếp chuyên nghiệp, đang lật món trứng tráng.
Viên sĩ quan hậu cần âm thầm thở dài, nhưng hầu hết lính hậu cần đều chỉ là những đứa trẻ và các thủy thủ đi biển ở nước ngoài thì toàn những người trên 20 năm kinh nghiệm. Các Sếp còn lại thì toàn kỹ thuật viên, ngoại trừ viên sĩ quan hậu cần, hầu hết bọn họ đều có thể làm đồ ăn được.
– Anh có thường nấu ăn ở nhà không sir?
– Thỉnh thoảng. Bố mẹ tôi có một nhà hàng ở Pass Christian. Đây là món trứng cuộn đặc biệt Cajun của mẹ tôi. Tiếc là chúng ta không có các vược, nếu không tôi sẽ làm món cá vược với chanh. Anh có thường câu cá không?
– Không sir. viên sĩ quan muốn tạo không khí thân quen nhưng viên thủy thủ đã quen với kỷ luật và hạn chế bản thân.
– Trung tá, liệu tôi có thể hỏi chúng ta đang làm cái quái gì ở đây vậy?
– Ước gì tôi biết, đầu bếp. Chúng ta đang đợi một cái gì đó.
– Là gì vậy sir?
– Khốn khiếp, tôi cũng muốn biết. Cậu chuyển cho tôi miếng giăm bông cắt hạt lựu và trông bánh trong lò thôi. Nó gần như chín rồi kìa.
Tàu NEW JERSEY.
Chuẩn tướng Eaton cảm thấy bối rối. Nhóm tàu chiến dưới quyền ông đang di chuyển cách hạm đội Nga 20 dặm về phía nam. Nếu trời không tối thì ông có thể nhìn thấy tháp chỉ huy tàu KIROV ngay từ tháp chỉ huy của tàu bên ông. Các tàu hộ tống đi thành hàng ngang theo đội hình tiến dần về phía trước phát ra những xung sonar để tìm kiếm tàu ngầm.
Kể từ khi lực lượng không quân điều động máy bay tiến hành các cuộc tấn công giả định thì người Liên Xô trở nên thành thật như những chú cừu. Đây đúng là hiếm thấy đến bất thường. tàu NEW JERSEY và các tàu hộ tống đang theo dõi chặt chẽ chuyển động của đội hình bên Liên Xô và hai máy bay Sentry được tăng cường phối hợp trinh sát. Việc tái triển khai của Liên Xô đã chuyển trách nhiệm của chuẩn tướng Eaton sang chú ý đến nhóm tàu KIROV. Điều này hợp ý ông. Các bệ phóng chính tên lửa trên tàu ông đã sẵn sàng, nòng pháo chứa đầy đạn pháo dẫn đường 8inch. Tất cả nhân sự đã vào vị trí chiến đấu. tàu TARAWA đang cách đó 30 dặm về phía nam, các máy bay Harriers của nó luôn sẵn sàng có mặt sau 5 phút nhận lệnh. NGười Liên Xô biết rõ điều này, dù mấy con máy bay trực thăng chống ngầm của họ không dám tiến cách tàu Mỹ 5 dặm trong suốt 2 ngày qua. Mấy con máy bay ném bom Bear và Backfire phải bay vòng qua Cuba – chỉ vài con quay lại tàu Nga nhanh chóng như lúc bay đi – hẳn đã báo cáo rõ những gì quan sát được. Các tàu chiến Hoa Kỳ đều sẵn sàng chiến đấu trong đội hình tấn công mở. Các tên lửa trên tàu NEW JERSEY và các tàu hộ tống liên lục nhận thông tin từ các cảm biến xung quanh. Và người Nga đều thờ ơ bỏ qua. Chỉ có radar dẫn đường hoạt động trên tàu bên họ. Thật lạ lùng.
Tàu sân bay NIMITZ ở khoảng cách xa Đại Tây Dương 5000 dặm tính theo đường hàng không đã được lệnh gọi về. Con tàu sân bay này và các tàu hộ tống chạy bằng năng lượng hạt nhân của nó là California, Bainbridge và Truxton giờ chỉ cách đây khoảng 400 dặm về phía Nam, cùng với nhóm tàu tác chiến America đi sau bọn họ nửa ngày. Tàu KENNEDY thì cách 500 dặm về phía đông. Điều này sẽ buộc hạm đội Liên Xô phải xem xét nghiêm túc các mối đe dọa từ cánh quân ba tàu sân bay phía sau họ, cũng như mối đe dọa của hàng nghìn máy bay trên bộ đang tập kết về căn cứ phía nam. Có lẽ đây là nguyên nhân chính giải thích cho sự ngoan ngoãn của họ.
Đội bay Backfire sau khi cất cánh từ Iceland đã bị đội máy bay Mỹ theo dõi suốt cả đoạn đường. Chiếc đầu tiên thực hiện nhiệm vụ theo dõi là máy bay Tomcat của hải quân xuất phát từ căn cứ Saratoga, rồi sau đó là máy bay Phantom xuất phát từ lực lượng không quân Maine, rồi chuyển giao nhiệm vụ cho Eagles và Falcon khi tiến gần đến bờ biển phía nam Cuba. Dù đội bay của Mỹ không quấy rối người Nga nhưng không thể nghi ngờ độ nghiêm túc của người Mỹ trong vấn đề này. Eaton rất mừng là họ không quấy rối, mà có quấy rối thì cũng chẳng làm sao, dù sao thì nhóm tàu chiến đấu của ông cũng luôn sẵn sàng chuyển trạng thái từ hòa bình sang chiến tranh trong vòng 2 phút.
Khu căn hộ Watergates.
– Xin lỗi, tôi mới chuyển đến và điện thoại chưa được cài đặt. Anh có thể cho tôi gọi nhờ một chút được không ạ?
Henderson đưa ra quyết định nhanh chóng. Vị khách đến là người cao khoảng 5.3feet, tóc nâu, mắt xám, thân hình hoàn hảo, nụ cười duyên dáng và ăn mặc thời trang.
– Tất nhiên. Chào mừng đến Watergate. Mời vào.
– Cảm ơn. Tôi là Hazel Loomis. Bạn bè gọi tôi là Sissy. cô chìa tay ra.
– Peter Henderson. Điện thoại trong bếp. Để tôi chỉ cô. Điều tốt lành có vẻ sắp đến. Anh ta vừa kết thúc mối quan hệ lâu dài với một trong những thư ký của Thượng nghị sĩ. Mối quan hệ đó trở thành gánh nặng với cả hai người.
– Tôi không làm phiền anh chứ? Anh không ở cùng với ai, phải không?
– Không, chỉ có tôi và chiếc TV. Cô mới đến D.C à? Cuộc sống về đêm ở đây không phải lúc nào cũng sôi động, ít nhất là không với những người phải làm việc ngày hôm sau. Cô làm việc cho công ty nào – tôi nghĩ cô còn độc thân?
– Vâng, tôi làm việc cho DARPA (Cơ quan Dự án Nghiên cứu Nâng cao Quốc phòng), là một lập trình viên. Tôi sợ là không thể nói nhiều về công việc .
Toàn tin tốt cả. Henderson nghĩ.
– Điện thoại ở đây.
Loomis nhìn xung quanh như thể đang tò mò về trang trí căn hộ. Cô thò tay vào trong ví và lấy một đồng xu đưa cho Henderson. Anh ta cười lớn.
– Miễn phí cuộc gọi đầu tiên và tin tôi đi, cô có thể sử dụng điện thoại chỗ tôi bất cứ khi nào cô muốn.
– Tôi vừa mới biết. cô cười khi bấm nút.
– ở đây dễ sống hơn ở Laurel. Xin chào, Kathy à? Sissy đây. Mình vừa mới chuyển vào, còn chưa lắp được điện thoại nữa…oh, anh chàng dưới nhà dễ thương đã cho mình dùng nhờ điện thoại của anh ấy…ok, hẹn cậu ăn trưa ngày mai nhé. Bye Kathy. Loomis nhìn xung quanh.
– Ai thiết kế nội thất cho anh mà đẹp vậy?
– Tự tôi làm đấy. Tôi học nghệ thuật ở Harvard và biết vài cửa hàng ở Georgetown. Cô có thể tìm được vài món hời nếu biết tìm chúng ở đâu.
– Ồ, tôi chỉ muốn căn của tôi được như thế này. Anh giới thiệu cho tôi xung quanh chút nhé.
– Chắc rồi. Phòng ngủ đầu tiên nhé? Henderson cười to thể hiện mình không hề có ý định xấu – mà đương nhiên là anh ta có rồi, dù anh ta là một gã kiên nhẫn trong mấy vấn đề này. Tour xem nhà diễn ra trong vài phút, đảm bảo với Loomis rằng căn hộ này chỉ có mình anh ta ở. Một phút sau, có tiếng gõ cửa. Henderson càu nhàu khi đi ra trả lời.
– Pete Henderson? Người đàn ông đặt câu hỏi mặc bộ vest công sở trong khi Henderson thì mặc quần bò và áo phông thể thao.
– Vâng? Henderson lùi lai, biết điều này phải như thế nào. Tuy nhiên, sự việc xảy ra tiếp theo khiến anh ta ngạc nhiên.
– Ông đã bị bắt, ông Henderson. Sissy Loomis nói, giơ thẻ ID lên.
– Ông bị buộc tội làm gián điệp.Ông có quyền giữ im lặng, ông có quyền nói chuyện với luật sư. Nếu ông từ bỏ quyền giữ im lặng thì mọi điều ông nói sẽ được ghi lại và có thể được sử dụng như bằng chứng chống lại ông. Nếu ông không có luật sư hoặc không thể thuê luật sư, chúng tôi sẽ chỉ định đại diện luật cho ông. Ông có hiểu các quyền này không, ông Henderson? Đây là vụ án gián điệp đầu tiên của Sissy Loomis. Trong 5 năm cô chịu trách nhiệm phá các vụ án cướp ngân hàng, thường mang khẩu súng cỡ nòng 3.57 trong túi xách.
– Vậy ông muốn từ bỏ những quyền này?
– Không, tôi không muốn. Giọng Henderson cộc cằn.
– Ồ, anh sẽ thôi. điều tra viên chỉ ra.
– Anh sẽ làm thế thôi. anh ta quay qua 3 đặc vụ đang đi cùng.
– Lục soát, nhẹ nhàng thôi các quý ông, chúng ta không muốn đánh thức bất kỳ ai. Còn ông, ông Henderson, sẽ đi cùng chúng tôi. Ông có thể thay quần áo trước. Chúng ta có thể giải quyết vấn đề này theo cách dễ dàng hoặc khó khăn, tùy ông chọn. Nếu ông hứa hợp tác, không đeo còng tay. Nhưng nếu ông cố chạy trốn – mà ông sẽ không muốn làm thế đâu, tin tôi đi. Viên điều tra viên đã làm việc cho FBI 20 năm và chưa bao giờ rút súng vì tức giận, trong khi Loomis thì đã bắn và giết hai người. Anh ta là lính FBI kiểu cũ và không thể không tự hỏi không biết Mr. Hoover nghĩ gì về chuyện này, không kể đến vị giám đốc mới nhậm chức người do thái nữa.
Trên tàu Tháng mười đỏ.
Ramius và Kamarov thảo luận về biểu đồ một lúc,kiểm tra vài lộ trình rồi quyết định chọn một. Những người lính dưới quyền làm ngơ. Không ai trong số họ biết về biểu đồ. Viên thuyền trưởng đi về phía cabin sau và cầm điện thoại lên.
– Đồng chí Melekhin. ông ra lệnh và chờ trong vài giây.
– đồng chí, đây là thuyền trưởng. Hệ thống lò phản ứng có gặp vấn đề gì nữa không?
– Không, thưa đồng chí thuyền trưởng.
– Tuyệt. Cứ giữ thế trong hai ngày nữa. Ramius đặt điện thoại lại. Để xem, 30 phút nữa sẽ đến phiên kiểm tra kế tiếp.
Melekhin và Kirill Surzpoi, kỹ sư phó, đang làm việc trong phòng động cơ. Melekhin đang quan sát hoạt động của tuabin, Superzooi thì đang kiểm tra hệ thống lò phản ứng. Mỗi người đều có một trung sĩ và 3 lính dưới quyền hỗ trợ. Các kỹ sư bận rộn suốt từ lúc ra khơi. Hầu hết tất cả các thiết bị và màn hình trong phòng máy đã được kiểm tra, nhiều thiết bị trong đây đã được tái bố trí bởi Melekin và Sulzboy, với sự trợ giúp của Valentine Bugaev, sỹ quan điện tử và thiên tài trên tàu, đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm giáo dục chính trị cho các thủy thủ. Công việc của các kỹ sư hàng hải là công việc khó khăn nhất trên tàu mà khả năng bị nhiễm phóng xạ cũng cao – đó không còn là bí mật gì trên tàu ngầm. Để giảm bớt khối lượng công việc của các kỹ sư hàng hải, các thủy thủ từ các bộ phận khác được luân chuyển tạm thời sang phòng máy để hỗ trợ thêm. Thuyền trưởng gọi đây là cơ hội tốt để đào tạo chuyên môn chéo, trong khi các thủy thủ cho rằng đó là cách tốt để làm quen với việc nhiễm phóng xạ. Tất nhiên, kỷ luật phải duy trì tuyệt đối. Điều này một phần là do sự tin tưởng của lính dưới quyền dành cho sỹ quan chỉ huy, một phần là do sự huấn luyện, nhưng phần lớn là do họ biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu không tuân theo lệnh ngay lập tức và nhiệt tình.
– Đồng chí Melekhin. Superzooi gọi.
– Đồng hồ số 6, tôi thấy sự dao động áp suất trên mạch chính.
– Tôi tới đây. Melekhin vội vàng đẩy nhân viên tránh đường và chạy đến bảng điều khiển chính.
– Công tơ lại hỏng rồi! Nhưng mọi thứ khác vẫn bình thường, không có vấn đề gì. viên kỹ sư trưởng tỉnh bơ, muốn mọi người nghe thấy. Mọi người trực trong buồng máy nhìn thấy viên kỹ sư trưởng thì thào với kỹ sư phó. Khi cả hai đang vặn công tắc điều khiển, Superzooi lắc nhẹ đầu.
Còi hai pha và đèn cảnh báo động xoay màu đỏ đã tắt…
– Tắt máy khẩn cấp! Merkin ra lệnh…
– đang tắt… Surzboi chạm ngón tay vào nút tắt trên bảng điều khiển chính.
– Các cậu, lên khoang phía trước. Melekhin ra lệnh tiếp theo, giọng dứt khoát không cho phép chống lại.
– Không, cậu, kết nối pin với động cơ caterpillar, nhanh lên! Viên trung sĩ lập tức quay đầu chạy lại nút bật và tắt tương ứng, nguyền rủa sự thay đổi mệnh lệnh dành cho cậu. Mất tổng cộng 40 giây.
– Đã xong, đồng chí!
– Đi!
viên trung sĩ là người cuối cùng rời khỏi khoang. Cậu kiểm tra lần nữa các cửa sập đã đóng chặt trước khi chạy đến Phòng điều khiển.
– Có chuyện gì xảy ra? Ramius bình tĩnh hỏi.
– Báo động rò rỉ phóng xạ trong phòng trao đổi nhiệt.
– tốt lắm, hãy đi về phía trước, tắm rửa để gột sạch đồ bẩn trên người. Hãy kiểm soát bản thân. Ramius vỗ vai viên trung sĩ.
– Chúng ta đã gặp phải những vấn đề này trước đây. Cậu là người đã được đào tạo. Thủy thủ nhìn vào anh như tấm gương để học tập.
Ramius nhấc điện thoại. Một lúc sau đầu dây bên kia mới trả lời.
– Đồng chí, có chuyện gì vậy? Thủy thủ đoàn trong phòng điều khiển nhìn thái độ của thuyền trưởng trả lời điện thoại. Họ không khỏi thán phục trước sự bình tĩnh của ông. Báo động bức xạ vang khắp tàu.
– Ra vậy, đồng chí, Pin chỉ còn chạy trong vài giờ nữa. Chúng ta có thể nổi lên đến độ sâu của ông thở. Chuẩn bị khởi động động cơ diesel. Đúng vậy. Ông cúp máy.
– Các đồng chí, hãy nghe tôi nói. giọng Ramius bình tĩnh.
– hệ thống điều khiển của lò phản ứng bị lỗi nhỏ Tiếng còi mà các bạn nghe thấy không phải do rò rỉ phóng xạ nghiêm trọng mà do hệ thống thanh điều khiển lò phản ứng bị lỗi. Hai đồng chí Melekhin và Superzooi đã tắt lò phản ứng thành công, nhưng chúng ta sẽ không quay trở lại trạng thái hoạt động bình thường cho đến khi tiến hành kiểm tra và kiểm soát toàn diện. Vì vậy, chúng ta sẽ tiếp tục chạy bằng động cơ diesel. Để ngăn ngừa ô nhiễm phóng xạ có thể xảy ra, khoang lò phản ứng đã được cách ly và tất cả các khoang khác, khoang cơ khí đầu tiên sẽ được thông khí khi tàu nổi lên. Kamarov, anh đến khoang sau để điều khiển bộ điều khiển môi trường. Tôi sẽ chỉ đạo lái tàu.
– Vâng, thưa đồng chí thuyền trưởng. Kamarov bước đến khoang phía sau. Ramius nhấc điện thoại lên truyền đạt thông tin đến thủy thủ đoàn. Mọi người đều đang chờ đợi chuyện xảy đến. Ở khoang phía trước, các thủy thủ bàn tán xì xào. Họ tin rằng cái được gọi là.
– lỗi nhỏ. ám chỉ thiết bị đang bị chạy quá công suất.
Sau khi Ramius phát biểu ngắn gọn, ông ra lệnh tàu ngầm bắt đầu nổi lên.
Trên tàu DALLAS.
– Thật kỳ lạ, thưa thuyền trưởng. Jones lắc đầu.
– Âm thanh lò phản ứng đã tắt, máy bơm nước ngừng hoạt động nhưng tàu vẫn chạy với vận tốc như cũ. Tôi đoán nó đang chạy bằng pin.
– Để lái được con vật khổng lồ ở tốc độ thế này cần phải có một hệ thống pin khủng. Mancuso phân tích.
– Vài giờ trước tôi đã dùng máy tính để tính toán. Jones đưa cuốn sổ cho thuyền trưởng.
– Nó được tính toán dựa trên thân tàu lớp Typhoon ở mọi chỉ số lý tưởng, vì vậy con số này cần được trừ hao.
– Cậu học cái này ở đâu vậy Jonesy?
– Mr Thompson giúp tôi giải quyết vấn đề động cơ thủy lực. Phần điện thì tương đối đơn giản, con tàu có thể được trang bị một thứ đặc biệt – có lẽ là pin nhiên liệu. Nếu sử dụng ở mức pin bình thường thì công suất của nó đủ lớn để cung cấp năng lượng cho tất cả các ô tô ở Los Angeles.
Mancuso lắc đầu.
– Họ không thể giữ tốc độ này mãi.
Jones giơ tay lên.
– Thân tàu đang kêu cót két…nghe có vẻ nó nổi lên.
Trên tàu Tháng mười đỏ.
– Nâng ống thở. Ramius nói, nhìn qua kính tiềm vọng, xác định ống thở đã nổi lên.
– Chà, không có tàu nào xung quanh, đó là tin tốt. Tôi nghĩ chúng ta đã bỏ lại mấy tàu của bọn đế quốc. Hãy nâng ăng ten ESM (hệ thống hỗ trợ điện tử) để xem có máy bay địch bí mật dò bằng radar không.
– báo cáo đồng chí thuyền trưởng, mọi thứ bình thường. Bugaev đang vận hành ESM.
– Không có gì, ngay cả máy bay hàng không dân dụng.
– Có vẻ như chúng ta đã bỏ rơi được đàn chuột. Ramius lại nhấc điện thoại.
– Melekhin, anh có thể mở van thông gió chính để thông gió cho buồng máy, sau đó khởi động động cơ diesel. Một phút sau, trục khuỷu khổng lồ của động cơ diesel bắt đầu quay dưới sức mạnh của pin, khiến cả con thuyền rung lên. Không khí ô nhiễm trong khoang lò phản ứng cạn kiệt, không khí trong lành từ biển tràn vào.
Động cơ tiếp tục kêu trong 2 phút và lớp vỏ tàu rung lên, những người thủy thủ chờ đợi tiếng nổ ầm ầm có nghĩa là động cơ đã bắt kịp và khiến máy điện hoạt động. Nhưng không thành công. Sau 30 giây thì ngả cả động cơ cũng tắt. Điện thoại ở phòng điều khiển vang lên. Ramius nhấc máy.
– Đồng chí kỹ sư trưởng, có chuyện gì xảy ra với động cơ diesel vậy? viên thuyền trưởng nghiêm nghị.
– Tôi hiểu. Tôi sẽ gọi mọi người quay lại – ò, đợi một chút. Ramius nhìn xung quanh, môi mím lại thành đường kẻ. Sĩ quan kỹ thuật trẻ tuổi. Svyadov đứng phia sau.
– Tôi cần một người biết về động cơ diesel đến giúp đồng chí Melekhin.
Bugaev đứng lên – Tôi lớn lên trong một trang trại, từ khi còn nhỏ tôi đã thích chơi với những chiếc máy kéo.
– Còn có một vấn đề khác…
Bugaev gật đầu đầy hiểu biết.
– Tôi cũng nghĩ vậy, đồng chí thuyền trưởng, nhưng chúng ta cần động cơ diesel này phải không?
– Đồng chí, tôi sẽ không quên điều này. Ramius thì thầm.
– Vậy anh hãy mua cho tôi rượu rum khi đến Cuba nhé. Bugaev dũng cảm cười.
– Tôi đã ước gặp một đồng chí người Cuba, tốt nhất là có mái tóc dài.
– Đồng chí, tôi có thể đi cùng anh. Shadow háo hức hỏi. Anh sẽ đến đó chỉ để quan sát,nhưng khi đến gần cánh cửa khoang lò phản ứng, anh bị dạt sang bên bởi những thủy thủ đang cố gắng chạy thoát.
– Hãy phân tích nguyên nhân của vấn đề trước đã. Bugayev nói, nhìn Ramius chờ xác nhận.
– Đồng ý, chúng ta còn nhiều thời gian. Bugayev, hãy báo cáo cho tôi sau mỗi 10 phút.
– Vâng, đồng chí thuyền trưởng.
– Svyadov, hãy phụ trách vị trí của trung úy. Ramius chỉ trên bảng điều khiển ESM – hãy tận dụng cơ hội này để học vài kỹ năng mới.
Viên trung úy làm theo khi được lệnh. Thuyền trưởng trông có vẻ lo lắng. Shadow chưa bao giờ thấy ông như vậy.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 01 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 02 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 03 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 04 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 05 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 06 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 07 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 08 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 09 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 10 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 11 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 12 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 13 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 14 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 15 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 16 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 17 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 18 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 19 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 20 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 21 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 22 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 23 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 24 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 25 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 26 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 27 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 28 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 29 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 30 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 31 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 32 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 33 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, toàn tập tại đây.