Tom Clancy | Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ | Chương 30
Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ (The hunt for the Red October) là tiểu thuyết tình báo của Tom Clancy, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1984 và được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1990.
· 63 phút đọc.
Ngày thứ 11.
Ngày 13 tháng 12.
Máy bay cường kích A – 10 Thunderbolt.
Thiếu tá Andy Richardson nhận thấy rằng lái máy bay A – 10 thú vị hơn DC – 9 rất nhiều. Mặc dù đã lái DC – 9 hơn 10.000 giờ và mới lái A – 10 Thunderbolt II hơn 600 giờ nhưng anh thích loại máy bay hai động cơ nhỏ này hơn. Richardson thuộc Không Đoàn Máy May Chiến Đấu 175 của Lực lượng Phòng Không Quốc Gia Maryland. Lệnh ban đầu của anh là bay đến một sân bay quân sự nhỏ ở phía đông Baltimore. Nhưng 2 ngày trước, khi đã được trang bị đầy đủ thì đơn vị số 175 của anh cùng 6 Lực lượng phòng không và các nhóm bay dự bị khác được lệnh đến tập trung tại sân bay SAC tại Căn Cứ không quân Loring ở Maine. Họ cất cánh lúc nửa đêm, nạp nhiên liệu trên không trong nửa giờ trước, rồi bay tiếp 1000 dặm ra biển Bắc Đại Tây Dương. Giờ thì Richardson và nhóm bay của anh gồm 4 máy bay đang bay ở độ cao 100 feet trên mặt nước biển ở vận tốc 400 hải lý/giờ.
Phía sau 4 máy bay của họ khoảng 100 dặm là 9 máy bay bay phía sau ở độ cao 30.000 feet tạo đội hình alpha như thể đang chuẩn bị chiến đấu, nhưng thực chất là dàn trận giả. Nhiệm vụ thực sự thuộc về đội hình 4 máy bay đang bay tầm thấp.
Richardson thực sự thích chiếc A – 10 này. Nó được các phi công đặt biệt danh trìu mến là Warthog hay đơi giản là Hog (con lợn). Gần như tất cả các dòng máy bay chiến đấu đều được chăm chút về đường nét bên ngoài cải thiện tốc độ và tính cơ động. Nhưng đặc điểm này lại không áp dụng cho Hog, nó có lẽ là loài chim xấu xí nhất được Không Quân U.S chế tạo. Động cơ phản lực cánh kép của nó được treo lên cánh đuôi của bánh lái kép thẳng đứng, như thể các chuyên gia máy bay đã quên cân nhắc khi thiết kế nó, nên trông nó như thể máy bay của những năm 30. Cánh phẳng của nó gần như không có góc quét. Để thu gọn bộ hạ cánh cồng kềnh, phần giữa của cánh cũng cong và bên dưới là nhiều giá treo vũ khí khác nhau. Phần dưới thân là vũ khí hàng không chính để chống lại xe tăng Liên Xô – súng ổ quay nòng 30mm GAU – 8.
Để phục vụ cho nhiệm vụ tối nay, máy bay của Richardson được nạp đầy đủ các quả đạn uranium cạn kiệt vào pháo Avenger và một cặp hộp bom chùm Rockeye – vũ khí chống tăng bổ xung. Ngay bên dưới thân máy bay là thiết bị hồng ngoại nhìn xuyên đêm LANTIRN (low – altitude navigation and targeting infrared for night). Ngoại trừ giá đựng vũ khí này thì các giá treo khác đều bị chiếm dụng bởi các thùng nhiên liệu.
Phi đoàn tiêm kích số 175 là đơn vị vệ binh quốc gia đầu tiên được trang bị LANTIRN. Nó được cấu tạo bởi một tập hợp các hệ thống quang điện, có thể cải thiện tầm nhìn của Hog khi thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm ban đêm ở độ cao thấp. Hệ thống chiếu một màn hình hiển thị ngẩng đầu (HUD) Nó gắn trên kính chắn gió của máy bay, làm cho ban đêm giống như ánh sáng ban ngày, do đó giảm thiểu rủi ro khi thực hiện các nhiệm vụ ban đêm. Có một vật thể nhỏ hơn được đặt bên cạnh mỗi LANTIRN, không giống như đạn pháo và đạn chùm Rockeye, được đặc biệt sử dụng cho tối nay.
Richardson không ngại – thực sự, anh rất thoải mái – hào hứng để đón nhận nhiệm vụ nguy hiểm này. Hai trong số 3 đồng chí của anh, đều giống như anh, là phi công hàng không dân dụng, người còn lại là phi công phun thuốc trừ sâu. Tất cả họ đều cực kỳ có kinh nghiệm trong bay tầm thấp và nhiệm vụ này rất phù hợp với họ.
Trước khi cất cánh, họ đã được một sĩ quan hải quân phổ biến nhiệm vụ trong hơn một giờ đồng hồ. Họ sẽ đến thăm hải quân Xô Viết. Richardson đã đọc trên báo chí rằng người Nga đang âm mưu gì đó và khi anh nghe tin bọn họ sẽ cử hạm đội đến gần bờ biển nước Mỹ để theo dõi một trong những tàu ngầm mất tích của mình, anh đã rất sốc trước hành động táo bạo này. Điều đáng phẫn nộ hơn nữa là vào ngày hôm trước, một tiêm kích nhỏ ban ngày của Liên Xô đã bắn từ phía sau vào chiếc Tomcat của hải quân Mỹ, suýt nữa giết chiết một phi công trên đó. Anh tự hỏi sao hải quân Mỹ không đáp trả. Hầu hết phi đội tiêm kích trên tàu SARATOGA đều để chế độ chờ trên đường băng ở căn cứ Loring, cùng với những chiếc máy bay ném bom B – 52, cường kích A – 6 Intruder và máy bay chiến đấu F – 18 cùng các xe tải chở vũ khí cung cấp cho đội bay luôn ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Richardson đoán nhiệm vụ của bọn anh chỉ mà phần mở đầu của chiến dịch, phần tế nhị. Khi Liên Xô mải nhìn chằm chằm vào đội hình tấn công alpha đang bay lượn trên rìa tầm bắn của SAM, bốn máy bay của đội Richardson sẽ thoát khỏi sự phát hiện của radar từ bên dưới và tiến về phía soái hạm của hạm đội Liên Xô, tàu tuần dương KIROV. Gửi cho họ một tin nhắn!
Điều đáng ngạc nhiên là Vệ binh quốc gia cũng tham gia vào nhiệm vụ này, Khoảng 1000 máy bay chiến thuật đã được huy động ngoài khơi Bờ Đông Hoa Kỳ, và khoảng 1/3 trong số đó là đội dự bị được huy động từ các nguồn khác nhau và Richardson đoán đó là một phần của thông điệp. Các phi công tuyến hai thực hiện một nhiệm vụ tác chiến khó khăn trong khi các phi đội chính quy túc trực ở trạng thái sẵn sàng trên các đường băng ở Loring, McGuire, Dover, Peace và nhiều căn cứ không quân khác từ Virginia đến Maine, đổ đầy nhiên liệu, phổ biến nhiệm vụ và ở trạng thái sẵn sàng. Gần 1000 máy bay, Richardson mỉm cười. Sao ngoài kia có đủ mục tiêu để đánh.
– Linebacker lead, đây là Sentry – Delta. Mục tiêu hướng 0 – 4 – 8, khoảng cách 50 dặm. Tuyến bay 1 – 8 – 5, tốc độ 20. Richardson không xác nhận trên kênh liên lạc radio mật mã. Máy bay đang dưới EMCON. Liên Xô có thể phát hiện bất kỳ nhiễu điện tử nào và bị đánh động. Ngay cả radar theo dõi mục tiêu của anh cũng tắt, chỉ có cảm ứng hồng ngoại thụ động và tv cảm biến ánh sáng là hoạt động. Anh nhanh chóng quét nhìn hai bên trái phải. Phi công tuyến hai, anh khịt mũi tự nhủ. Tất cả mọi người trong đội bay này đều có ít nhất 4000 giờ bay, nhiều hơn hầu hết các phi công thông thường, thậm chí nhiều hơn hầu hết các phi hành gia. Những con chim họ đang bay được bảo trì bởi những nhân viên mày mò chế tạo vì họ thích làm công việc của mình, vì vậy tỷ lệ bay của máy bay cao hơn bất kỳ phi đội thông thường nào, và tỷ lệ tai nạn cũng thấp hơn mấy độ Warthog ở Anh và Hàn Quốc. Lần này họ sẽ cho mấy tên Russkies biết điều đó.
Anh mỉm cười một mình Chắc chắn Warthog bay hay hơn DC – 9. Anh đang làm việc cho U.S. Air, lái DC – 9 mỗi ngày từ Washington qua Providence đến Hartford và bay về ngay trong ngày. Richardson là một cựu phi công máy bay chiến đấu của Lực lượng Không quân. Anh rời đội 8 năm trước và trở thành phi công hàng không dân dụng hào nhoáng, hoàn thành ước nguyện ấp ủ từ lâu là kiếm được lương cao và sống một cuộc sống sung túc. Anh đã bỏ lỡ cuộc chiến ở Việt Nam và lái máy bay dân dụng không yêu cầu trình độ kỹ năng cao như thế này.
Theo những gì anh biết, con Warthog không có tốc độ lướt nhanh khi bay cao. Hog chưa bao giờ được sử dụng cho các nhiệm vụ tấn công trên biển – một phần khác của thông điệp. Không ngạc nhiên là nó lại được sử dụng hiệu quả thế. Súng ổ quay chống tăng trên boong là vũ khí hiệu quả để chống lại tàu mặt nước. Đạn uranium cạn kiệt và đạn chùm Rockeye có thể làm nổ tung các phương tiện chiến đấu bọc thép thành từng mảnh, chưa nói đến việc chống lại các tàu chiến có độ dày tấm thép hạn chế. Thật tiếc là lần này không được sử dụng thật. Đã đến lúc phải có ai đó dạy cho mấy tên Ivan một bài học.
Đèn cảm biến radar mối đe dọa trên màn hình đang nhấp nháy, điều này có nghĩa là kẻ thù đang tìm kiếm bề mặt bằng radar băng tần S nhưng không đủ công suất để phản hồi lại. Liên Xô không có trạm radar trên không và hệ thống radar trên tàu bị ảnh hưởng bởi độ cong của Trái Đất. Tia sáng ở ngay phía trên và anh vừa tránh được nó. Nếu họ có thể bay trên 500ft thay vì 100 feet thì họ càng khó bị phát hiện, nhưng lệnh không cho phép.
– Đội Linebacker, đây là Sentry – Delta, Hãy phân tán và tiến về phía trước. AWACS đưa ra lệnh.
Những chiếc A – 10 bắt đầu tách ra để tổ chức đội hình tấn công, bay cách nhau vài dặm. Lệnh nhận được là bắt đầu tách ra khi còn cách mục tiêu 30 dặm. Khoảng bốn phút sau, Richardson nhìn đồng hồ kỹ thuật số, đội Linebacker vẫn đến đúng giờ. Phía sau họ, nhưng chiếc Phantom và Corsair trong đội hình bay alpha cũng cũng sớm chuyển hướng tấn công vào Xô Viết để thu hút sự chú ý của bên đó. Anh sẽ gặp họ sớm thôi…
Trên HUD xuất hiện các chấm nhỏ ở đường chân trời – đây chính là các tàu khu trục của Liên Xô: Udaloy và Sovremenny. Viên sĩ quan phổ biến nhiệm vụ đã cho họ xem những bức ảnh về các con tàu chiến này.
Bíp! Máy theo dõi mối đe dọa vang lên. Radar dẫn đường tên lửa băng tần X vừa quét qua máy bay của Richardson và mất, hiện nó đang lại cố gắng tìm lại mục tiêu. Richardson bật thiết bị gây nhiễu ECM (Thiết bị gây nhiễu điện tử). Hiện giờ anh chỉ còn cách các tàu khu trục 5 dặm. Vẫn còn 40 giây. Hãy tiếp tục giữ yên lặng, các đồng chí.
Anh bắt đầu tăng tốc, thực hiện các động tác nhào lộn trên không liên tục, leo lên, bay xuống, rẽ trái và phải, không theo hướng cố định. Đây chỉ là một trò chơi nhưng không có lý gì phải khiến cho mấy tên Ivan thời gian dễ chịu. Nếu đây là cuộc chiến thực thì con Hog của anh sẽ bắn 1 loạt tên lửa chống radar và sẽ có nhưng con máy bay chiến đấu chống radar Wild Weasel (F – 4)hợp tác để tiêu diệt hệ thống điều khiển tên lửa của Liên Xô. Mọi thứ đang tiến rất nhanh tại thời điểm này và tàu khu trục phía trước quét càng lúc càng dày đặc trên đường bay. Anh chạm nhẹ vào bánh lái, khiến tàu khu trục lệch khỏi đường bay ¼ dặm. Hiện còn cách KIROV 1 dặm nữa – 18 giây.
Hệ thống HUD hiển thị một hình ảnh ảnh trực tiếp. Ăng ten radar chồng lên cột buồm hình kim tự tháp trên tàu KIROV hiện lên ngay trước kính chắn gió máy bay. Anh có thể nhìn thấy các đèn tín hiệu quanh chiếc tàu khu trục nhấp nháy. Richardson đẩy mạnh bánh lái rẽ phải để máy bay tình cờ bay cách KIROV 300m như yêu cầu, không xa hơn, không gần hơn. Con Hog của anh lướt qua mũi tàu như tia chớp, trong khi các máy bay khác bay qua đuôi tàu và 2 chùm tia. Anh không muốn cắt mặt nó quá gần. Viên thiếu tá kiểm tra lại lại lần nữa để chắc chắn các nút điều khiển bom và pháo vẫn đang khóa ở chế độ an toàn. Thời điểm này không thể cẩu thả được, Nếu là trong một cuộc tấn công thưc thì anh chỉ kích hoạt khẩu pháo và một loạt pháo giận dữ sẽ được bắn vào tấm giáp mỏng trên khoang chứa tên lửa phía trước của Kirov, làm nổ tung tất cả SAM và các tên lửa hành trình thành một quả cầu lửa khổng lồ, một con rồng lửa khổng lồ trỗi dậy như một con dao sắc bén cắt đứt thượng tầng như thể nó làm từ giấy.
Còn 500m nữa, Richardson cúi xuống chuẩn bị phóng pháo sáng gắn bên cạnh LANTIRN.
Đến lúc! Anh chạm vào công tắc, nửa tá pháo sáng dù cường độ cao bằng magie phụt ra. Cả 4 máy bay Linebacker cùng thực hiện hành động trong vài giây. Đột nhiên KIROV như được bao bọc trong một chiếc hộp bằng ánh sáng magie màu trắng – xanh. Richardson kéo cần lại, và máy bay bước vào quá trình chuyển tiếp bay tăng dần, lao vút qua chiếc tàu tuần dương. Trong một khoảnh khắc, ánh sáng chói lọi khiến anh choáng váng nhưng anh vẫn có thể nhìn thấy những đường nét thanh lịch của KIROV. Con tàu chiến đang quay một góc lớn trên biển và đám đông trên boong tàu đang nhốn nháo chạy xung quanh như kiến.
Nếu tụi tao nghiêm túc thì chúng mày đã chết rồi.
– nhận được thông điệp rồi chứ? Richardson bấm ngón tay cái mở radio.
– Linebacker gọi Sentry – Delta. anh nói rõ ràng.
– Robin Hood, lặp lại, Robin Hood. Đội bay Linebacker, đây là máy bay dẫn đầu, lập đội hình theo tôi. Về nhà nào.
– Đội bay Linebacker, đây là Sentry – Delta. Xuất sắc. sỹ quan kiểm soát trả lời.
– Lưu ý, KIEV điều 2 con Forger bay lên không trung, 30 dặm về phía đông, đang tiến về phía các anh. Họ sẽ nhanh chóng săn các anh. Sẽ thông báo tiếp. Cắt.
Richardson thực hiện một phép tính nhẩm trong đầu. Có lẽ bọn họ sẽ không bắt kịp đội anh, ngay cả có bị bắt kịp thì 12 con Phantom trong nhóm máy bay tiêm kích đánh chặn thuộc đội 107 cũng đang sẵn sàng đợi.
– Khốn khiếp, thích thật. Linebacker số 4, phi công lái máy bay phun thuốc trừ sâu, tiến vào kênh liên lạc.
– Các cậu có thấy mấy thằng thổ đấy chỉ vào chúng ta không? Khốn khiếp, chúng ta đã chọc đúng tổ bọn nó.
– Tiến lên thoát khỏi mấy con Forger nào. Richardson giục mọi người, anh bật cười trong chiếc mặt nạ dưỡng khí. Phi công tuyến hai à, anh khịt mũi, mẹ kiếp!
– hãy cứ để bọn chúng đến đây. Linebacker 4 trả lời.
– Nếu có tên khốn nào dám đến gần tôi, chỉ cần cách 30 dặm thì đó chính là sai lầm cuối đời của hắn. Richardson không thích cái giọng hiếu chiến của Số 4 nhưng anh ta thực sự tay lái con Hog cừ khôi.
– đôi bay Linebacker, đây là Sentry – Delta. Mấy con Forger đã bay về tàu. Các bạn đã an toàn. Cắt.
– Đã rõ. Kết thúc. OK, các anh em, hãy bình tĩnh và hướng về nhà nào. Tôi nghĩ chúng ta vừa có được lương tháng này. Richardson kiểm tra các thiết bị bay để xem tần số công khai đã được mở _Thưa quý vị, đây là cơ trưởng Barry Flandry… anh nói, sử dụng giọng điệu lịch sự của U.S Air từ lâu đã trở thành một câu chuyện vui của Lữ đoàn bay số 175.
– Tôi nghĩ quý vị sẽ có một hành trình rất vui vẻ. Cảm ơn quý vị đã đáp chuyến bay của Warthog Airlines…_
Tàu KIROV.
Trên tàu KIROV, đô đốc Strabo lao ra khỏi Trung Tâm Chỉ Huy Thông Tin Chiến Đấu đến thẳng Tháp Chỉ Huy. Quá muộn. Họ đã phát hiện ra một cuộc tấn công tầm thấp chỉ 1 phút trước. Đạn pháo sáng đã rơi xuống phía sau KIROV và một vài thanh vẫn còn đang cháy trong nước. Ông nhìn các thủy thủ trên tháp chạy quanh như những con ruồi.
– Thưa đồng chí đô đốc, 60 hoặc 70 giây trước chúng đã ở trên chúng ta. Viên sỹ quan trưởng Tháp báo cáo.
– Chúng tôi đang theo dõi lực lượng tấn công đang bay theo quỹ đạo và bốn con máy bay này.
– chúng tôi nghĩ là 4 – đang bay dưới tầm phủ sóng radar của chúng ta. Tên lửa của chúng ta đã khóa được 2 trong số chúng.
Strabo cau mày. Hiệu suất hành động không tốt. Nếu cuộc phản công là thật thì KIROV sẽ bị thiệt hại nặng. Người Mỹ rất vui khi đổi 2 máy bay chiến đấu lấy một con tàu tuần dương chạy năng lượng hạt nhân. Nếu tất cả đội bay Mỹ đều tấn công kiểu này.
– Mấy thằng Mỹ thật kiêu ngạo. Viên chính ủy hạm đội chửi bới.
– Thật ngu xuẩn khi khiêu khích bọn họ. Strabo cay đắng.
– Tôi đã biết chuyện này sẽ xảy ra mà, nhưng tôi hy vọng chúng xuất phát từ tàu KENNEDY.
– Đó là sự hiểu lầm, do lỗi của phi công. viên sĩ quan chính ủy trả lời.
– Vasily, đó không phải là sự hiểu lầm. Họ vừa gửi cho chúng ta một thông điệp, nói rõ rằng chúng ta đang ở cách bờ biển của họ 1500km mà không có hệ thống phòng không hiệu quả, và rằng họ đang có sẵn 500 chiếc máy bay chiến đấu nằm sẵn ở phía tây đang chờ. Trong lúc đó thì tàu KENNEDY đang tiếp cận chúng ta từ phía đông như một con sói đói. Chúng ta không ở trong tình thế khả quan.
– Người Mỹ sẽ không liều lĩnh như vậy.
– Anh có chắc điều đó không, đồng chí chính ủy? Chắc chắn không? SẼ thế nào nếu một trong số những máy bay vừa rồi bắn chúng ta do.
– sai lầm của phi công? và đánh chìm một trong những con tàu khu trục của chúng ta? Sẽ thế nào nếu tổng thống Hoa Kỳ sẽ gọi thẳng trực tiếp đến Moscow gửi lời xin lỗi trước khi chúng ta báo cáo lên trên? Điều gì sẽ xảy đến nếu họ thề rằng đó chỉ là một tai nạn của phi công và họ hứa sẽ trừng phạt thằng phi công ngu ngốc đó? – sau đó thì sao? Anh nghĩ rằng mấy tên đế quốc đó còn tâm trí sáng suốt khi có những tàu tuần dương địch tiếp cận bờ biển của họ? Tôi thì không. Tôi nghĩ họ sẽ lấy một cái cớ tầm thường nhất để tấn công chúng ta. Đi đến cabin của tôi và chúng ta phải bàn bạc lại cẩn thận.
Hai người đi về phía đuôi tàu. Cabin của Strabo được bố trí rất đơn giản. Trang trí duy nhất trên bức tường là bức ảnh Lenin đang đọc diễn văn trước Hồng Quân Liên Xô.
– Nhiệm vụ của chúng ta là gì, Vasily? Strabo hỏi.
– Hỗ trợ các tàu ngầm, giúp họ tìm kiếm…
– Chính xác. Nhiệm vụ của chúng ta là hỗ trợ, không phải tham gia trực tiếp hoạt động tìm kiếm. Người Mỹ không muốn chúng ta ở đây. Khách quan mà nói, tôi có thể hiểu được lý do. Với tất cả đống tên lửa chúng ta đang có ở đây đang đe dọa họ thế này.
– Nhưng lệnh là chúng ta không đe dọa họ. Viên chính ủy cãi lại.
– Tại sao chúng ta lại muốn tấn công quê hương họ chứ?
– Và tất nhiên là những tên đế quốc kia nhận ra rằng chúng ta là những người chủ nghĩa xã hội yêu chuộng hòa bình! Coi này, Vasily, đây là những kẻ thù của chúng ta! Phía ngược lại, họ cũng chả tin tưởng gì chúng ta cả. Tất nhiên là họ cũng muốn tấn công chúng ta, có thể dùng một cái có tầm thường nhất! Họ đã và đang can thiệp vào hoạt động tìm kiếm của chúng ta rồi, giả vờ như giúp đỡ. Họ không muốn chúng ta ở đây – và đang để chúng ta bị khiêu khích bởi những hành động hiếu chiến của họ, và chúng ta sẽ rơi vào bẫy. Viên đô đốc nhìn chăm chăm xuống bàn.
– Vì vậy chúng ta sẽ thay đổi cách tiếp cận. Tôi sẽ ra lệnh cho hạm đội dừng mọi hành động mang tính hiếu chiến khiêu khích. Chúng ta sẽ dừng các hoạt động trên không khác, chỉ thực hiện các hoạt động bay tuần tra thông thường ở một số khu vực nhất định. Không đe dọa các tàu Mỹ ở gần và chỉ sử dụng các radar dẫn đường thông thường.
– Và?
– Và chúng ta sẽ nuốt chửng niềm kiêu hãnh của mình và nhu mì như những con chuột. Bất kể họ khiêu khích, thế nào chúng ta sẽ không đáp trả.
– Một số người sẽ gọi đó là hèn nhát, đồng chí đô đốc. Viên chính ủy cảnh báo. Strabo đang mong chờ những câu này.
– Vasily, anh không thấy sao? Họ đánh lừa chúng ta bằng những chiêu trò lừa đảo. Họ buộc chúng ta phải kích hoạt hệ thống phòng thủ bí mật mới nhất để họ có thể thu thập tình báo về hệ thống điều khiển hỏa lực và radar của chúng ta, đồng thời phân tích hiệu suất của máy bay chiến đấu và trực thăng, khả năng cơ động của tàu chiến và quan trọng nhất là phân tích khả năng tác chiến của hệ thống chỉ huy và điều khiển. Chúng ta sẽ phải chấm dứt điều này. Nhiệm vụ trước tiên của chúng ta quá quan trọng. Nếu họ tiếp tục khiêu thích, chúng ta sẽ hành động như thể chúng ta đang làm nhiệm vụ giữ gìn hòa bình – điều đó khiến họ hành động như những kẻ xâm lược. Và nếu họ tiếp tục khiêu khích, thì chúng ta sẽ quan sát chiến lược bọn họ sử dụng và không cho phép bọn họ thu lợi từ đó. Anh thấy việc này tốt hơn, hay anh thích để bọ họ phá hủy nhiệm vụ chúng ta đang thực hiện?
Viên chính ủy càu nhàu đồng ý. Nếu không hoàn thành nhiệm vụ thì trách nhiệm bị coi là hèn nhát chỉ là chuyện nhỏ. Nếu tìm ra con tàu ngầm đang đào tẩu, thì dù bất kỳ chuyện gì xảy đến, họ cũng trở thành anh hùng.
Tàu DALLAS.
Anh đã làm nhiệm vụ trong bao lâu rồi? Jones tự hỏi. Để kiểm tra điều này thì anh chỉ việc chạm vào nút trên đồng hồ điện tử, nhưng người lính sonar không muốn làm việc này. Nó chỉ khiến anh nản lòng hơn thôi. Anh thầm nguyền rủa trong đầu – anh giỏi lắm, thuyền trưởng, giỏi cái mông tôi đây này! Anh đã phát hiện được con tàu ngầm đó ở khoảng cách 20 dặm, có lẽ, suýt nữa thì tóm được nó – và giờ thì trong cái Biển Đại Tây Dương khốn khiếp rộng cả 3 ngàn dặm này đi tìm một con tàu ngầm thì may mắn là không đủ.
Chà, anh đã tận hưởng một buổi tắm Hollywood. Thông thường, tắm trên một con tàu thiếu nước ngọt chỉ được kéo dài vài giây đủ để làm ướt cơ thể, một phút chà xà phòng, rồi sau đó được xả nước vài giây cho sạch xà phòng. Tắm ở đây chỉ khiến bạn làm sạch cơ thể chứ không khiến bạn thoải mái, hài lòng. Mà bây giờ còn tốt hơn thời xưa nhiều rồi đấy, mấy thủy thủ già nói vậy. Nhưng mà sau đó, Jones thường trả lời, các thủy thủ trước đây phải chèo thuyền – hoặc chạy tàu bằng máy diesel và pin, giờ cũng có phải làm điều ấy đâu. Sau vài ngày trên biển, ai mà không thèm kiểu tắm Hollywood chứ? Để nước cứ chảy xuống tạo thành một dòng nước ấm dài, vô tận, đẹp đẽ. Thuyền trưởng Mancuso thường dùng phần thưởng về sự tận hưởng tuyệt vời này cho những người làm việc xuất sắc, khiến mọi người phải cố gắng mà phấn đấu. Làm gì có chỗ nào tiêu tiền thừa trên tàu ngầm, ở đây không có bia hay phụ nữ.
Có mấy bộ phim cũ – họ cũng đang nỗ lực ghi điểm ở mục này. Viên thủ thư của tàu cũng không quá tồi, nếu bạn có thời gian phân loại đống sách lộn xộn. DALLAS cũng có 2 chiếc máy tính Apple và vài tá trò chơi để giải trí. Jones là nhà vô địch trò choplifter và zork trên tàu. Máy tính chủ yếu là dành cho mục đích đào tạo, tất nhiên rồi, phần lớn thời gian là tổ chức các kỳ thi thử và lập trình các khóa học.
DALLAS đang tìm kiếm ở vùng biển phía đông Brand Banks, nơi tàu nào muốn vượt qua Tuyến Số Một (Route One) cũng phải đi qua, tàu đang di chuyển với tốc độ 5 hải lý/giờ, và sonar kéo BQR – 15 đang hoạt động dưới nước. Họ đã phát hiện các loại mục tiêu khác nhau. Đầu tiên là nửa số tàu ngầm của hải quân Liên Xô qua đây ở tốc độ cao, nhiều tàu trong số đó đã bị tàu Mỹ bám theo. Cách họ chưa đầy 3000m, một con tàu ngầm lớp A (Alfa) đã lao qua họ với tốc độ 40 hải lý/giờ. Thật dễ phát hiện, Jones đã nghĩ thế. Con Alfa tạo ra tiếng ồn mà ngay cả qua lớp cửa kính thân tàu cũng nghe thấy rõ. Jones đã phải vặn bộ khuếch đại xuống thấp nhất để ngăn tiếng ồn làm hỏng tai. Thật tiếc là họ không thể bắn. Việc thiết lập quá đơn giản, giải pháp kích hoạt dễ dàng đến nỗi một đứa trẻ với thanh trượt kiểu cũ cũng có thể làm được. Con Alfa đó như miếng thịt nằm sẵn trên bàn. Rồi mấy con tàu lớp V (Victor) chạy theo kế tiếp, rồi lớp C (Charlie) và tàu lớp N (November) chạy cuối cùng. Jones cũng theo dõi các tàu nổi hướng về phía tây. Nhiều tàu trong số đó đang vượt sóng ở tốc độ 20 hải lý/giờ, tạo ra nhiều tiếng động khác nhau. Bọn chúng chạy ngày càng xa và cũng không phải điều anh cần quan tâm.
Họ đang cố gắng bất lấy một mục tiêu đặc biệt trong suốt 2 ngày qua và Jones hầu như chỉ ngủ được một giờ mỗi lần tạm nghỉ. Chà, đó là những gì mình được trả lương để làm đấy, anh chạnh lòng. Chuyện này không phải lần đầu tiên, anh đã làm việc ở cường độ này trước đây rồi, nhưng anh vẫn rất vui nếu việc khổ sai này sớm kết thúc.
Cáp dài 1.000 feet trên mảng sonar kéo khẩu độ lớn đều đã được giải phóng. Jones ví nó như một công cụ để đùa giỡn cá voi. Đây là thiết bị sonar nhạy cảm nhất của họ, có thể bảo vệ DALLAS khỏi bị kẻ thù theo dõi. Ngoại trừ phần đuôi tàu.
– điểm mù sonar, sonar của tàu ngầm thường có thể bao quát đa hướng. Jones đã sử dụng sonar BQR – 15 để nghe thấy nhiều tiếng ồn khác nhau, nhiều tiếng động trong số đó được phát ra từ tàu ngầm và tàu nổi, và đôi khi từ máy bay ở độ cao thấp. Có một cuộc tập trận ở vùng biển gần Florida, và anh không thể đánh giá được nguồn gốc của tiếng ồn. Cuối cùng, thuyền trưởng nâng kính tiềm vọng lên để quan sát, và phát hiện ra rằng nó là con bồ nông đang lặn. Rồi một lần ở Bermuda, họ đã phát hiện ra một đôi cá voi lưng gù đang giao phối, phát ra âm thanh quyến rũ. Jones đã sao chép cho riêng mình một bản để mang lên bờ; Một số phụ nữ thấy nó thật thú vị, theo cách khác lạ. Anh chỉ cười thầm.
Một phần đáng kể âm thanh nhận được là tiếng ồn bề mặt. Bộ xử lý tín hiệu đã lọc hầu hết những tiếng ồn này, và cứ vài phút một lần Jones lại tắt bộ xử lý một lần để ngăn tín hiệu bị lọc quá nhiều. Máy giờ đang yên lặng; Jones tự hỏi liệu SAPS có để lọt một phần tín hiệu bất thường trong bộ nhớ hay khong. Đôi khi máy tính vẫn bị lỗi, nói một cách chính xác là lỗi ở chương trình cài đặt: Bạn yêu cầu máy làm điều gì đó và nó thực hiện nhưng theo một cách sai lầm. Jones thường thích tự mình lập trình. Anh biết vài người bạn ở trường đại học vẫn thường tự lập trình trò chơi cho máy tính cá nhân mình, một trong số họ còn kiếm được tiền với Hệ thống Sierra On – Lines Systems…
Lại mơ giữa ban ngày nữa rồi, Jonesy, anh tự trách. Thật không dễ khi ngồi không hàng giờ mà không nghe thấy gì. Anh nghĩ thật là một ý tưởng hay khi cho phép lính sonar được đọc gì đó khi làm nhiệm vụ. Sẽ hợp lý hơn nếu anh đưa ra đề nghị này. Ông Thomson có thể đồng ý nhưng thuyền trưởng và tất cả các sĩ quan cao cấp đều xuất thân từ tàu hạt nhân và quen với kỷ luật sắt đá: Anh phải dán mắt vào mọi thiết bị với sự tập trung cao độ trong mọi lúc. Jones không cho rằng đây là cách làm thông minh. Lính sonar làm việc rất khác. Năng lượng của họ rất dễ bị cạn kiệt. Để thích nghi với môi trường này, Jones đã phải mang theo rất nhiều đĩa nhạc và trò chơi điện tử của riêng mình. Anh có thể đắm chìm trong mọi loại hình giải trí, đặc biệt là Choplifter. Anh tự biện hộ rằng một người cần phải tạo cơ hội để đầu óc nghỉ ngơi ít nhất một lần mỗi ngày. Phải có cái gì đó luân phiên làm nhiệm vụ chứ. Ngay cả lái xe tải, những người hầu như ít phải làm việc đầu óc nhất, những phải có radio và đầu nghe nhạc để giữ tỉnh táo. Nhưng các thủy thủy trên tàu ngầm hạt nhân có giá trị cả tỷ đô…
Jones nghiêng người về phía trước, ấn chặt tai nghe vào đầu. Anh xé một trang vẽ nguệch ngoạc trên tập giấy nháp và ghi lại thời gian trên một tờ giấy mới. Tiếp theo, anh thực hiện một số điều chỉnh trên các điều khiển độ lợi của mình, khi nhận thấy rằng nó đã gần đạt đến thang điểm cao nhất, anh lại đóng SAPS. Tiếng ồn bề mặt trái ngược gần như nổ tung não anh. Jones chịu đựng nó một lúc, sau đó điều chỉnh công tắc thủ công để lọc ra phần khó chịu nhất của tiếng ồn tần số cao. VÂNG! Jones tự nhủ, có lẽ SAPS đã chống lại mình! – quá sớm để nói chắc.
Sau khi hoàn thành khóa học SAPS tại Trường Sonar, Jones rất háo hức được biểu diễn cho anh trai mình. Anh trai của anh có bằng thạc sĩ về kỹ thuật điện, nắm giữ mười một bằng sáng chế và hiện đang là cố vấn cho một công ty thu âm. Mặc dù vậy, những thiết bị này trên DALLAS sẽ khiến anh ấy mở rộng tầm mắt. Về công nghệ âm thanh kỹ thuật số, hệ thống quân sự tiên tiến hơn hệ thống dân sự vài năm. Thật tiếc khi mọi thứ liên quan đến tàu ngầm hạt nhân đều được đưa vào phạm vi bảo mật…
– Mr Thompson. Jones nói khẽ, không nhìn quanh.
– Liệu anh có thể hỏi giúp thuyền trưởng là anh ấy có thể chạy chậm hơn 1 hoặc 2 hải lý/giờ?
– Thuyền trưởng. Thompson bước ra khỏi cabin và truyền đạt với thuyền trưởng Mancuso yêu cầu của Jones. Sau 15 giây, lộ trình và tốc độ mới đã được đưa ra. 10 giây sau đó Mancuso bước vào phòng sonar.
Viên thuyền trưởng đang lo lắng đến đổ mồ hôi vì chuyện này. Mục tiêu 2 ngày trước họ suýt bắt được rõ ràng đã không hành động như mong đợi, hoặc đã không chạy theo tuyến này, hoặc đã không hề chạy chậm lại. Chỉ huy Mancuso đã phán đoán sai điều gì đó – có thể anh đã đoán sai về lộ trình của vị khách? Điều này có nghĩa là gì nếu.
– vị khách. không chạy tuyến này? Jones đã hình dung ra từ lâu: đây là tín hiệu của một tàu ngầm tên lửa dẫn đường, mà tàu ngầm tên lửa dẫn đường thì không chạy với tốc độ cao.
Jones đang ngồi khom người vào bàn như thường lệ, giơ tay trái ra lệnh những người vừa đến im lặng, kéo mảng cơ sở chính xác cao vào vị trí đông – tây. Điếu thuốc vẫn lặng lẽ cháy trong gạt tàn. Từ tính máy ghi âm liên tục quay trong phòng sonar, các cuộn băng được thay đổi sau mỗi giờ và giữa lại để phân tích sau đó trên bờ. Có một máy ghi âm khác được sử dụng ngay trên tàu để tái kiểm tra các mục tiêu. Jones đưa tay bật máy ghi âm, rồi quay lại nhìn thuyền trưởng đang cúi xuống nhìn mình, khuôn mặt bừng sáng trong nở nụ cười mệt mỏi.
– Phải. anh thì thầm Mancuso chỉ vào loa, Jones lắc đầu.
– tiếng ồn quá nhỏ, thuyền trưởng. Tôi chỉ vừa bắt được nó. Có thể ở phía bắc, tôi nghĩ cần thêm thời gian để xác định… Mancuso dán chặt mắt vào ngón trỏ của Jones đang điều chỉnh băng. Nó gần như đã giảm xuống 0 – hầu như cận 0. Khoảng 50 giây một lần nó hơi rung lên. Jones kìm nén sự tức giận của mình và ghi chú lại. Anh viết:.
– Chính cái bộ lọc SAPS chết tiệt đã làm mọi thứ rối tung lên ! Chúng ta cần những bộ khuếch đại mượt mà hơn và những công tắc điều khiển bộ lọc thủ công tốt hơn!
Mancuso tự nhủ điều này đúng là hơi nực cười. Anh quan sát Jones giống như đang quan sát vợ mình khi đẻ Dominic, anh đếm sự run rẩy nút xoay trên ngón tay như thể đang đếm các cơn co thắt trước khi sinh. Nhưng không có gì thích thú khi nhìn điều này hết. Anh từng nói với cha rằng sự phấn khích giống như lần đầu tiên anh nghe thấy tiếng lá xào xạc trong rừng trong lần đầu tiên đi săn và bạn biết đó không phải là tiếng người. Tuy nhiên, sự phấn khích đó bây giờ mạnh hơn nhiều. Bởi vì anh đang săn những người, những người lái tàu ngầm như anh…
– Thuyền trưởng, tiếng ồn tăng lên. Jones ngả người ra sau và châm một điếu thuốc.
– Mục tiêu đang hướng về phía chúng ta. Tôi đoán là 3 – 5 – 0, có lẽ là 3 – 5 – 3. Âm thanh vẫn còn rất yếu, nhưng đó chính là cậu bé chúng ta cần tìm. Chúng ta bắt được rồi. jones quyết định muốn mạo hiểm có hành động không kiêng nể gì. Anh xứng đáng có được một chút khoan dung.
– Chúng ta đợi hay chúng ta đuổi theo, sir?
– Chúng ta đợi. Không việc gì phải đánh động nó. Chúng ta sẽ đợi nó đến gần và ở khoảng cách thật đẹp trong khi chúng ta sẽ tạo một hố nước mô phỏng để dẫn nó qua, rồi chúng ta sẽ gắn thẻ phía sau để vuốt đuôi nó một lúc. Tôi muốn lắp một cuộn băng khác để ghi lại tiếng ồn của nó, và tôi muốn BC – 10 để thực hiện quét SAPS. Sử dụng hướng dẫn để bỏ qua các thuật toán xử lý. Tôi muốn mục tiêu này được phân tích mà không cần giải thích. Chạy 2 phút/lần Tôi muốn các đặc tính tín hiệu được ghi lại và phân tích. Tôi muốn biết mọi thứ: Tiếng ồn động, đặc điểm hiệu suất tín hiệu…tóm lại tôi muốn biết chính xác nó là ai.
– Hắn là một con tàu Liên Xô, thưa ngài. Jones trả lời.
– Nhưng là tàu loại nào của Liên Xô? Mancuso mỉm cười.
– vâng, thuyền trưởng. Jones đã hiểu. Anh vẫn phải làm việc thêm 2 giờ nữa nhưng cuối cùng đã nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm. Gần như thế. Mancuso ngồi xuống và lấy một cặp tai nghe dự phòng, ăn trộm một điếu thuốc của Jones. Anh đang cố gắng bỏ thuốc một tháng nay, nhưng có khi anh chỉ có thể làm được điều này khi lên bờ…
Tàu INVINCIBLE của Hải quân Hoàng Gia Anh.
Ryan đang mặc tạm bộ quân phục của Hải Quân Hoàng Gia Anh. Anh chỉ mang theo một bộ quân phục và hai chiếc áo sơ mi, điều cho thấy công việc diễn biến nhanh đến thế nào. Bây giờ quần áo đã được gửi đi giặt nên giờ anh phải mặc một chiếc áo len và một chiếc quần tây do Anh sản xuất. Anh nghĩ, không ai biết anh ở đây, mọi người gần như đã quên anh. Không tin nhắn từ tổng thống – dù anh cũng chẳng mong chờ gì – Painter và Davenport thì rất vui khi quên rằng anh từng có mặt trên KENNEDY. Greer và Moore có thể đang nghiên cứu điều ngu ngốc gì đó, hoặc có lẽ cười nhạo anh khi nói Jack Ryan đã dùng tiền công để du lịch biển.
Đây không phải chuyến du lịch biển dễ chịu. Jack cảm thấy sức khỏe yếu đi vì say sóng. Tàu INVINCIBLE dừng lại ở vùng biển Massachusetts,chờ đội tàu mặt nước của Nga và toàn lực tìm kiếm các con tàu ngầm của Liên Xô trên vùng biển này. Chúng đang lan thành những vòng tròn trên biển không bao giờ dừng lại. Mọi người đều bận rộn – trừ anh. Phi công cất cánh hai lần/ngày, thậm chí hơn, hợp tác với lực lượng không quân và hải quân Hoa Kỳ dưới quyền chỉ huy từ các căn cứ không quân trên bờ trong các cuộc tập trận chung, hiện đang tiến hành các cuộc tập trận tác chiến mặt nước. Và như đô đốc White đã nói vào bữa sáng, đây là bước phát triển tiếp theo tuyệt vời, như một phần mở rộng của cuộc tập trận NIFTY DOLPHIN. Ryan không muốn bị đối xử như một người thừa. Tất nhiên là mọi người rất lịch sự. Quả thực là có hơi nhiệt tình quá. Ryan có quyền vào trung tâm chỉ huy. Và anh khi theo dõi cách người Anh săn tàu ngầm thì còn được giới thiệu chi tiết quá trình hoạt động để anh có thể hiểu được một nửa.
Bây giờ anh đang ngồi đọc tư liệu một mình trong cabin của White, căn nhà gỗ này đã trở thành nhà của anh trên biển. Ritter đã cẩn thận nhét một nghiên cứu của một nhân viên CIA vào túi anh. Tiêu đề bài báo là.
– Những đứa trẻ mất tích: phân tích tâm lý của những người đào tẩu khỏi Nhóm Đông Âu. Tài liệu dài ba trăm trang này được chuẩn bị bởi một ủy ban chung gồm các nhà tâm lý học và bác sĩ tâm thần. Các chuyên gia này phục vụ CIA và các cơ quan tình báo khác, giúp những người đào tẩu làm quen và thích nghi với cuộc sống ở Hoa Kỳ, đồng thời hỗ trợ CIA tăng cường công tác an ninh nội bộ trong nước.
Tuy không chiếm đa số, nhưng đúng là luôn có tính hai mặt trong mọi việc CÔNG TY (ám chỉ CIA) làm. Ryan thừa nhận rằng đây là một tài liệu rất thú vị. Anh chưa bao giờ nghiêm túc suy nghĩ về nguyên nhân khiến con người đào tẩu. Anh đoán rằng chắc hẳn bên kia Bức màn sắt có nhiều chuyện không vui buộc những người nhạy bén phải tìm cơ hội chạy trốn sang phương Tây. Tuy nhiên, anh đã đọc bản báo cáo và thấy rằng nó không hề đơn giản. Mọi người chạy qua đều có lý do độc lập của riêng mình. Một số người nhận ra sự bất bình đẳng của cuộc sống dưới thời Chủ nghĩa cộng sản và khao khát công lý, tự do tôn giáo, cơ hội phát triển với tư cách cá nhân, thì một người khác có thể chỉ đơn giản muốn làm giàu, đã đọc về cách các nhà tư bản tham lam bóc lột quần chúng và quyết định rằng trở thành kẻ bóc lột có điểm tốt của nó; Ryan nghĩ điều này rất thú vị.
Còn một dạng đào tẩu nữa là đào tẩu giả, tức là một kẻ mạo danh có kế hoạch bẫy CIA với mục đích cung cấp thông tin sai lệch. Tuy nhiên, những người này có xu hướng cắt thông tin cả hai phía và cuối cùng lại trở thành kẻ đào tẩu chính hiệu. Ryan bật cười, không thể ngờ rằng hóa ra nước Mỹ lại có sức cám dỗ như vậy đối với những người đã quen với cuộc sống xám xịt ở Liên Xô. Tuy nhiên, hầu hết họ đều nguy hiểm, vì lý do này mà một kẻ đào tẩu không bao giờ được tin tưởng. Chưa từng. Một người có thể chay đổi đất nước một lần thì cũng có thể thay đổi đất nước lần tiếp. Ngay cả những người theo chủ nghĩa lý tưởng, từ bỏ quê hương trong tuyệt vọng cũng thường bị cắn rứt lương tâm. Trong một chú thích, có bác sỹ còn chú thích rằng:Hình phạt đau đớn nhất cho Aleksander Solzhenitsyn là cuộc sống lưu vong. Đối với một người yêu nước, sống xa quê hương còn đau đớn hơn nhiều so với sống trong trại tập trung. Ryan cảm thấy điều đó thật khó tin nhưng dữ kiện trong tài liệu cho thấy điều này là đúng.
Phần còn lại của tài liệu mô tả những vấn đề mà những người đào tẩu gặp phải sau khi họ định cư tại Hoa Kỳ. Các tài liệu cho thấy người Liên Xô thường xuyên tự sát trong vài năm đầu sau khi đào tẩu. Một số chính xác là vì họ không thể thích nghi với cuộc sống tự do của phương Tây, cũng giống như những tù nhân đã ở trong tù một thời gian dài không thể sống mà không có sự kiểm soát tổ chức cao đối với cuộc sống, và lại phạm tội với hy vọng được trở lại môi trường mà họ nghĩ là an toàn. Trong vài năm qua, CIA đã đưa ra một dự thảo để giải quyết vấn đề này, từ đường cong thống kê trong phụ lục của báo cáo, có thể thấy hiện tượng các vấn đề môi trường nghiêm trọng đã giảm đi rất nhiều. Ryan đã đọc rất nhiều sách. Trong thời gian học tiến sĩ lịch sử tại Đại học Georgetown, anh đã dành chút thời gian rảnh để nghe các khóa học tâm lý học. Anh ấy cứ băn khoăn, có lẽ bác sĩ thần kinh không biết mọi thứ, họ đã họp lại với nhau và đồng ý với một số suy nghĩ ngẫu nhiên mà tất cả sẽ sử dụng… Anh ấy lắc đầu. Vợ anh đôi khi cũng nói như vậy. Caroline Ryan là giảng viên nhãn khoa trong chương trình trao đổi Mỹ.
– Anh đang làm việc tại Bệnh viện St. Gay ở London. Cô xem mọi thứ như những vết thương và sự chữa lành. Nếu ai đó bị bệnh về mắt, cô ấy có thể chữa khỏi hoặc không chữa khỏi. Một tư tưởng khác lạ, Jack đã đưa ra kết luận này sau khi đọc tài liệu hai lần, và mỗi người đào tẩu nên được đối xử riêng biệt, theo cách riêng, cần được các viên chức thông cảm để xử lý các vấn đề một cách cẩn thận vì họ có thời gian và quan tâm để chăm sóc người đào tẩu một cách chu đáo. Ryan không biết mình có làm được không.
Đô đốc White bước vào.
– Buồn không Jack?
– Vẫn còn ổn, thưa đô đốc. Khi nào thì chúng ta liên lạc với bên Liên Xô?
– tối nay. Trong sự cố máy bay Tomcat, người bên cậu đã khiến họ trải qua một thời gian không dễ chịu.
– Tốt. Có lẽ mọi người nên tỉnh táo trước khi điều thực sự tồi tệ xảy ra.
– Cậu nghĩ có xảy ra không? White ngồi xuống.
– Chà, đô đốc, nếu chúng ta thực sự săn chiếc tàu ngầm này thì tôi nghĩ rằng có dấu, nếu không thì họ ở đây vì mục đích khác hoàn toàn, và tôi đã đoán sai. Tệ hơn nữa, tôi sẽ sống với đánh giá sai này suốt đời – cho đến khi tôi chết.
Trung Tâm Y Tế Hải Quân Norfolk.
Tait cảm thấy tốt hơn. Tiến sỹ Jameson đã tiếp quản công việc trong vài giờ qua, cho phép anh nằm cuộn tròn trên ghế sofa trong phòng nghỉ của bác sĩ 5 giờ đồng hồ, đây là lần ngủ lâu nhất của anh trong mấy ngày gần đây. Giờ thì anh xuất hiện tràn đầy năng lượng hơn hầu hết các đồng nghiệp trên tầng này. Anh gọi nhanh một cuộc điện thoại và chẳng mấy sữa được bưng lên. Là người Mormon, Tait tránh hầu hết các thứ có caffein – cà phê, trà, thậm chí là coca cola – và dù tính tự kỷ luật này thật hiếm hoi đối với hầu hết các bác sĩ, càng hiếm hoi hơn đối với lính, thì anh cũng chẳng mấy khi giải thích, và chỉ nói với đồng nghiệp rằng thói quen này giúp kéo dài tuổi thọ. Tait uống ly sữa, cạo râu trong phòng tắm và rạng rỡ chào ngày mới.
– Jamie, có tin tức gì về phơi nhiễm phóng xạ không? Phòng thí nghiệm X – quang đã thất bại.
– họ mời một sĩ quan từ tàu tiếp tế của tàu ngầm đến đo độ phóng xạ, anh đã quét bộ quần áo cẩn thận và phát hiện độ nhiễm là 20 rad, và không có triệu chứng thể chất rõ ràng. Tôi nghĩ có thể do y tá đã lấy mẫu máu ở mu bàn tay. Vấn đề với tứ chi cũng có thể là tắc nghẽn mạch máu. Đây có thể là lý do lượng bạch cầu giảm mạnh. Có thể vậy.
– Còn các vấn đề khác thì sao?
– tốt hơn. Không cải thiện nhiều nhưng tốt hơn. Tôi nghĩ có lẽ do tác dụng của keflin. viên bác sĩ mở hồ sơ bệnh nhân.
– Số lượng bạch cầu đang tăng lên. Hai giờ trước tôi đã truyền thêm 1 unit máu, hóa học máu đã trở lại bình thường. Huyết áp từ 100 đến 60, nhịp tim 94. Nhiệt độ đo 10 phút trước là 100.8 độ F – thân nhiệt cậu ấy không ổn định trong nhiều giờ, lên xuống thất thường.
– Tim cậu ấy khá tốt. Thực tế, tôi nghĩ cậu ta sẽ khỏe lại thôi, trừ khi có bất ngờ xảy đến. Jamesson tự nhắc nhở mình rằng nhiều trường hợp thân nhiệt thấp thậm chí sẽ không xảy ra bất thường cho đến cả tháng sau mới xuất hiện triệu chứng.
Tait kiểm tra bảng theo dõi số liệu lâm sàng, nhớ lại anh từng như thế nào vài năm trước. Một bác sĩ trẻ sáng sủa, giống Jamie, tự tin rằng mình có thể chữa được mọi bệnh trên thế gian. Cảm giác thật tuyệt. Thật tiếc là trải nghiệm đó.
– anh đã từng ở Đà Nẵng 2 năm – đã đánh bại và hủy hoại anh. Dù sao thì Jamie nói đúng, tình trạng đã được cải thiện đủ để tăng cơ hội sống sót của bệnh nhân.
– Những người Nga đang làm gì vậy? Tait hỏi.
– Pechkin đang quan sát gì đó. Sau khi thay bộ đồ bảo hộ, ông ta để cho đại tá Smirnov giữ bộ đồ đó như thể sợ chúng ta trộm chúng ấy.
Tait giải thích rằng Pechkin là điệp viên KGB.
– Không đùa chứ? Có lẽ ông ta vẫn còn dấu súng. Jameson thích thú.
– Nếu ông ta mang súng thì nên giữ nó cẩn thận. Chúng ta có 3 lính thủy đánh bộ ở đây bảo vệ đấy.
– Thủy quân lục chiến. Họ ở đây làm gì?
– Quên nói với anh, có một vài nhà báo thấy chúng ta có một tên Russkie lẻn vào đây và cố gắng lừa hắn xuống lầu. Một y tá đã chặn hán lại. Đô đốc Blackburn phát hiện và tức điên lên. Giờ thì cả lầu bị phong tỏa. Không biết bí mật lớn gì đây?
– Tôi chịu, nhưng chuyện diễn ra thế rồi. Cậu nghĩ sao về gã Pechkin này?
– Tôi không biết, tôi đã gặp tên người Nga nào trước đây đâu. Họ có vẻ không thích cười. bọn họ thay phiên nhau canh chừng bệnh nhân như là sợ chúng ta sẽ đưa cậu ta đi ấy.
– Hoặc có lẽ cậu ta sẽ nói điều gì đó mà họ không muốn chúng ta nghe? Tait tự hỏi.
– Cậu có cảm giá là họ không muốn cậu ta sống không? Ý tôi là, có thể họ không muốn chúng ta biết về tàu ngầm của họ ấy.
Jameson cân nhắc.
– Không, người Nga có vẻ thích giữ bí mật mọi thứ, phải không? Dù sao thì Smirnov có thể làm được điều gì đó.
– Đi ngủ một lát đi, Jamie.
– Vâng, đại tá. Jameson rời khỏi hành lang. Tait nghĩ lại, khi chúng ta hỏi người Nga về loại tàu ngầm, có nghĩa là hỏi liệu nó có phải loại chạy bằng hạt nhân hay không? Điều gì khiến họ nghĩ rằng chúng ta đang hỏi về tàu ngầm mang tên lửa hành trình? Mọi việc có vẻ có lý nhỉ? Phải, một tàu ngầm mang tên lửa hành trình đang hoạt động gần bờ biển chúng ta, và tất cả những hành động này của họ ở Bắc Đại Tây Dương. Mùa Giáng Sinh. Ôi lạy chúa! Nếu họ định làm điều gì đó thì họ đang làm điều đó ngay bây giờ, phải không? Anh đi về phía sảnh. Một y tá đang ra khỏi phòng, cầm theo một mẫu máu đi xuống phòng thí nghiệm ở tầng dưới. Máu cần phải kiểm tra mỗi giờ và theo đó thì Pechkin sẽ có vài phút ở một mình với bệnh nhân.
Tait đứng vào một góc và quan sát Pechkin của cửa sổ, ông ta đang ngồi trên ghế kê ở góc giường, quan sát người đồng hương đang hôn mê của mình. Ông ta khoác trên mình chiếc áo khoác màu xanh lá mặc vội, một bộ quần áo bảo hộ có thể mặc được cả mặt trước và mặt sau, có túi hai bên để các bác sĩ không phải lo lắng việc chúng có bị lộn ngược hay không. Khi Tait nhìn vào thì thấy Petchkin đang thò tay vào cổ tay áo lấy ra một thứ gì đó.
– Ôi chúa ơi! Taid lao vòng qua góc và sải bước qua cửa phòng. Cái ngước nhìn của Pechkin chuyển sang ngạc nhiên khi viên bác sĩ gạt điếu thuốc và cái bật lửa ra khỏi tay ông, rồi sau đó là phẫn nộ khi ông bị nhấc lên khỏi ghế và kéo sềnh sệch ra khỏi cửa. Trong hai người, Tait nhỏ hơn nhưng năng lượng bùng nổ đột ngột của anh đủ để tống người đàn ông Nga ra khỏi phòng.
– An ninh. Tait hét lên.
– Chuyện này nghĩa là sao. Pechkin chất vấn.
Tait đang ôm ông ta như con gấu. Ngay lập tức, anh nghe thấy tiếng chân chạy dọc từ hành lang.
– Có chuyện gì vậy, sir? Một thủy quân lục chiến chạy đến, cầm khẩu súng cỡ nòng 45 colt trên tay phải, thở hồng hộc và trượt trên sàn lát gạch trước khi đứng nhìn.
– Người đàn ông này đang cố giết chết bệnh nhân của tôi…
– Cái gì? khuôn mặt Pechkin đỏ bừng.
– Hạ sĩ, nhiệm vụ của anh giờ là chốt gác ở cửa đó, Nếu người đàn ông này bước vào phòng, anh sẽ phải ngăn ông ta bằng mọi giá. Hiểu chưa?
– Vâng, vâng, thưa ngài. viên hạ sĩ nhìn người đàn ông Nga.
– Thưa ngài, xin hãy vui lòng tránh xa khỏi cửa?
– Các người có ý gì với hành vi vô lý như vậy!
– thưa ngài, xin hãy tránh xa khỏi cánh cửa, ngay bây giờ. viên lính thủy đánh bộ rút cây súng ra khỏi bao.
– Chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy. Ivanov xuất hiện đúng lúc cách đó 10 feet, bình tĩnh hỏi.
– Bác sĩ, ông có muốn thủy thủ của mình sống sót không. Tait hỏi, cố gắng bình tĩnh.
– Chuyện gì…tất nhiên là chúng tôi mong cậu ấy còn sống. Sao anh lại hỏi câu này?
– Vậy tại sao đồng chí Pechkin lại vừa cố gắng giết chết cậu ta.
– Tôi không có! Pechkin hét ầm lên.
– Chính xác thì ông ta vừa làm gì? Ivanov hỏi. Trước khi Tait có thể trả lời, Pechkin tuôn ra một tràng tiếng Nga, rồi sau đó chuyển sang nói tiếng Anh.
– Tôi chỉ đang tìm thuốc lá, vậy đó. Tôi không mang vũ khí, tôi không muốn giết ai cả. Tôi chỉ muốn hút thuốc thôi.
– Ngoại trừ hành lang, Ông có nhìn thấy biển NO SMOKING để khắp tầng này không – Ông không nhìn thấy sao? Ông đang ở trong phòng chăm sóc đặc biệt – với một bệnh nhân thở oxy nguyên chất 100%, không khí và ga trải giường thấm đầy ô xy và ông định bật cái bật lửa chết tiệt đó. Vị bác sĩ hiếm khi mắng ai đã nổi giận thực sự.
– Ồ chắc chắn rồi, ông chỉ muốn đốt một cái gì đó thôi, nó sẽ trông giống như một vụ tai nạn – và đứa trẻ đó sẽ chết! Tôi biết ông là ai, Pechkin và tôi không nghĩ ông ngu xuẩn đến thế. Ra khỏi tầng của tôi ngay.
Người y tá quan sát chuyện này nãy giờ, bước vào phòng bệnh nhân, rồi quay trở ra với 1 bao thuốc, có 2 điếu rời, một chiếc bật lửa nhựa butan và vẻ mặt tò mò.
Pechkin mặt tái mét.
– Tiến sỹ Tait. Tôi đảm bảo là tôi không có ý định đó. Ông đang nói điều gì sẽ xảy ra?
– Đồng chí Petchkin. Ivanov nói tiếng Anh chậm rãi.
– Sẽ có vụ nổ và cháy. Ông không thể bật lửa gần ô xy.
– Nichevo!/ Ôi chúa ơi! Cuối cùng thì Pechkin đã nhận ra ông ta đã làm gì. Ông đợi cho y tá rời khỏi phòng – mấy nhân viên y tế sẽ không bao giờ cho phép ông hút thuốc mỗi khi ông hỏi. Ông không biết đây là điều cấm kỵ ở bệnh viện và điệp viên KGB vẫn có thói quen thích làm gì thì làm. Ông bất đầu nói chuyện với Ivanov bằng tiếng Nga. Viên bác sĩ Liên Xô tỏ thái độ giống như bậc cha mẹ đang nghe đứa con giải thích vì sao kính vỡ.
Về phần Tait thì anh bắt đầu tự hỏi liệu anh có phản ứng hơi quá – bất kỳ ai bắt đầu hút thuốc đều là tên ngốc.
– Bác sĩ Tait. Pechkin cuối cùng nói.
– Tôi thề là tôi không biết về vụ oxy. Có lẽ tôi quá ngu ngốc.
– Y tá. Tait qua lại.
– Chúng ta sẽ không bao giờ để bệnh nhân này một mình mà không ai trông nom.
– không bao giờ. Việc chuyển mẫu máu hoặc những việc khác hãy để cho nhân viên vệ sinh làm. Nếu cô muốn đi vệ sinh, phải để ai đó trông bệnh nhân giúp.
– Vâng, bác sĩ.
– Ông Petchkin, đừng xử sự như thế này lần nữa. Nếu ông phá vỡ quy tắc một lần nữa thì ông sẽ bị đuổi ra khỏi tầng này. Ông hiểu không?
– Bác sĩ, tôi sẽ làm như anh nói. Cho phép tôi xin lỗi.
– Anh cứ ở lại. Tait nói với viên lính thủy quân lục chiến. Anh bước đi, vừa lắc đầu tức giận, tức giận với người Nga, xấu hổ với bản thân mình, ước gì có thể quay lại Bethesda nơi anh thuộc về và ước gì anh có thể thề thốt cho mạch lạc. Anh đi thang máy xuống tầng 1, mất 5 phút để tìm thấy nhân viên tình báo đến đây cùng mình hôm đầu. Cuối cùng anh cũng tìm thấy cậu ta trong phòng giải trí đang chơi game Pac Man. Họ thảo luận một lúc tại phòng lãnh đạo bệnh viện.
– Anh thực sự nghĩ ông ta muốn giết bệnh nhân? viên trung tá nghi ngờ.
– Vậy tôi nên hiểu thế nào? Tait hùng hồn.
– Anh nghĩ sao?
– Tôi nghĩ ông ta chỉ đang bối rối. Họ muốn đứa trẻ đó sống – không, đầu tiên họ muốn nghe cậu ta nói chuyện – còn hơn cả anh muốn nữa.
– Sao anh biết chắc chắn điều đó?
– Pechkin gọi cho đại sứ quán mỗi giờ/lần. Tất nhiên là chúng tôi có nghe trộm. Thế anh nghĩ sao?
– Thế nhỡ là bẫy thì sao?
– thế thì ông ta là một diễn viên đại tài rồi. Anh cần cứu đứa trẻ đó, bác sĩ, và cứ để phần còn lại cho chúng tôi lo. Dù sao thì có lính thủy quân lục chiến canh gác là ý kiến hay. Mấy con chuột Nga đó thật khốn khiếp, đừng bao giờ để bọn chúng lẻn vào. Vậy khi nào thì bệnh nhân có thể tỉnh lại?
– Không rõ ràng. Cậu ta vẫn đang sốt cao và rất yếu. Sao họ lại muốn cậu ta nói chuyện? Tait hỏi.
– Để tìm hiểu xem cậu ta phục vụ trên tàu ngầm nào. Khi Pechkin liên lạc KGB đã tiết lộ trên điện thoại – bất cẩn! Quá bất cẩn! Họ hẳn phải rất lo lắng điều đó.
– Chúng ta có biết đó là tàu ngầm gì không?
– Chắc chắn. nhân viên tình báo nói một cách tinh quái.
– Vậy thì đang xảy ra chuyện gì vậy trời?
– Không thể tiết lộ, bác sĩ. viên trung tá mỉm cười như thể anh ta biết tất cả, dù thực tế anh cũng chả biết gì.
Xưởng đóng tàu hải quân Norfolk.
Tàu ngầm hạt nhân USS Scamp cập cầu tàu. Một cần trục cẩu lớn đang cẩu chiếc tàu cứu hộ chìm sâu Avalon lên boong. Viên thuyền trưởng đứng trên mũi tàu sốt ruột theo dõi. Anh rất khó chịu khi anh và tàu của mình bị gọi quay lại bờ khi đang theo dõi đội tàu ngầm hạt nhân lớp V (Victor) của Liên Xô. Viên thuyền trưởng tàu ngầm tấn công này vài tuần trước đã tham gia cuộc diễn tập trận DSRV (thăm dò sonar phục hồi lặn sâu) và giờ anh còn có chuyện phải làm quan trọng hơn là chơi trò cá voi mẹ ôm trò chơi vô dụng chết tiệt này. Bên cạnh đấy, việc lắp đặt tàu ngầm bỏ túi này ở lối ra khẩn cấp của đuôi tàu sẽ làm giảm tốc độ tối đa của nó đi 10 hải lý / giờ ,tàu giờ phải thêm 4 người ăn ngủ. tàu SCAMP vốn đã chẳng rộng rãi gì.Nhưng ít nhất là đợt này bọn họ kịp tiếp tế thêm thức ăn. SCAMP đã ở biển vượt quá 5 tuần khi lệnh triệu hồi vào bờ gửi đến.Nguồn rau tươi đã cạn kiệt và họ tận dụng cơ hội này để xuống bến tàu lấy thêm thực phẩm tươi. Một người đàn ông đang ăn vội món salad ba đậu. Tối nay họ sẽ có rau diếp, cà chua, ngô tươi thay vì đồ đóng hộp. Nhưng điều đó cũng không bù đắp được thực tế là vẫn còn những tên người Nga ngoài kia khiến anh lo lắng.
– Tất cả đều an toàn chứ? viên thuyền trưởng gọi vọng xuống boong.
– Vâng, thuyền trưởng. Chúng tôi đã sẵn sàng khi anh ra lệnh. trung úy Ames trả lời.
– Phòng máy. viên thuyền trưởng gọi kênh liên lạc nội bộ.
– Tôi muốn anh sẵn sàng đáp lời chuông reo trong 10 phút nữa.
– Sẵn sàng rồi, thưa thuyền trưởng.
Tàu lai dắt đỗ gần đó sẵn sàng kéo tàu ngầm rời bến. Armes biết họ đã nhận được mệnh lệnh gì đó mà viên thuyền trưởng không thích. Họ chắc chắn sẽ không thực hiện theo dõi và săn tàu ngầm nữa, chí ít là khi còn vác con Avalon chết tiệt này trên boong.
Tàu Tháng mười đỏ.
– Shadow nhìn kìa. Melekhin chỉ vào đó.
– Tôi sẽ chỉ cậu xem một kẻ phá hoại đã làm gì. Viên trung úy đi tới nhìn ngó. Viên kỹ sư trưởng chỉ vào van một chiều trên bộ trao đổi nhiệt. Trước khi nhận được lời giải thích, Melekhin đã đi tới chiếc điện thoại treo trên vách ngăn.
– Đồng chí thuyền trưởng, đây là Melekhin. Tôi đã tìm ra. Tôi yêu cầu tạm dừng lò phản ứng trong một giờ. Chúng ta có thể dùng pin cho caterpillar hoạt động không? Không à?
– Tất nhiên là được. Đồng chí kỹ sư trưởng. Ramius nói.
– tiến hành.
Melekhin quay sang viên sĩ quan kỹ sư phó.
– Anh sẽ tắt lò phản ứng và kết nối pin với hệ thống đẩy caterpillar.
– Làm ngay đây, đồng chí. Viên sĩ quan bắt đầu vận hành các công tắc điều khiển khác nhau. Trong quá trình tìm kiếm rò rỉ, mọi người đều cảm thấy như bị một hòn đá đè trong lòng. Ngay khi họ phát hiện ra máy đo bức xạ Geiger bị hư hỏng, Melekhin và Borodin đã sửa chữa ngay lập tức, và sau đó họ bắt đầu một cuộc kiểm tra toàn diện các khoang thuộc lò phản ứng hạt nhân, một công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Không hề có câu hỏi gì về một sự rò rỉ lớn, nếu không thì Svyadov đã tìm thấy nó bằng cây chổi – chỉ cần một rò rỉ nhỏ hơi nước thoát ra cũng đủ chặt đứt một cánh tay. Họ cho rằng nguyên nhân có thể là một sự rò rỉ nhỏ ở phần hạ áp của hệ thống điện, phải không nhỉ? Điều khiến ai cũng phải đau đầu là không biết cụ thể nguyên nhân.
Kỹ sư trưởng và kỹ sư phó đã kiểm tra hơn 8 giờ, trong suốt thời gian đó lò phản ứng lại ngừng hoạt động. con tàu cắt hết điện, ngoại trừ điện dành cho đèn khẩn cấp và động cơ caterpillar. Ngay cả hệ thống lọc khí cũng bị ảnh hưởng. Thủy thủ đoàn xầm xì bàn tán khắp nơi.
Vấn đề là, Melekhin cũng vẫn chưa tìm ra được chỗ rò rỉ và khi kiểm tra những huy hiệu được phát ngày hôm trước thì không có gì trên đó. Sao có thể?
– Đến, Svyadov, và nói cho tôi biết anh nhìn thấy những gì. Melekhin bước tới và chỉ tay.
– Đây là van kiểm tra nước làm mát. tàu ngầm chỉ mở nó khi vào cảng. Sau khi lò phản ứng được làm mát, nó được sử dụng để xả hệ thống làm mát và kiểm tra sự nhiễm phóng xạ của nước bất thường. Đây là một văn nặng thông thường không dễ thấy với một bánh xoay lớn. Đầu phun dưới van nằm ở phần dưới của đường ống áp lực và được nối bằng vít thay vì hàn.
– Trung úy, mang cho tôi cái cờ lê lớn. Shadow tưởng Melekhin đã tìm ra được câu trả lời. Anh luôn là học sinh chậm chạp nhất của các giáo viên mỗi khi cần nói điều gì quan trọng. Shadow trở lại, mang theo một chiếc cờ lê ống dài 1m. Viên kỹ sư trưởng đợi cho đến khi máy dừng hoạt động rồi mới bắt đầu kiểm tra các máy đo hai lần để chắc chắn đường ống đã được khử áp. Ông vốn là người cẩn thận. Sau đó, ông cố định cờ lê trên đường ống và vặn nó theo đường chỉ, vòi phun dễ dàng được tháo ra.
– Cậu nhìn xem, đồng chí trung úy, sợi chỉ trên đường ống đã chạy đến ống van. Sao điều này lại được phép xảy ra?
– Thưa đồng chí sợi chỉ nên nằm bên ngoài đường ống và van chịu áp lực. Đầu nối vặn vào chỉ là một trục xoay định hướng. Kết nối này không thể ảnh hưởng đến vòng áp suất.
– Chính xác. Một khớp vít không đủ để gây áp lực lên toàn bộ hệ thống. Melekhin tháo khớp ra bằng cả hai tay. Nó là cỗ máy hoàn hảo, mối nối được gia công ở chất lượng rất tốt. Đường chỉ trên vẫn giữ được độ sáng như vừa mới gia công…
– Có kẻ cố tình phá hoại.
– Tôi không hiểu.
– Đồng chí trung úy, có ai đó đã nghĩ làm việc này ở đây là rất cẩn thận. giọng Melekhin vừa ngưỡng mộ vừa tức giận.
– Dưới áp suất hoạt động bình thường, ở tốc độ nhanh thì áp suất của hệ thống là 80kg/1cm2, đúng không?
– Vâng, thưa đồng chí, và áp lực ở tốc độ tối đa cao hơn 90%. Shadow thuộc nằm lòng.
– Nhưng chúng ta hiếm khi chạy hết tốc lực. Những gì chúng ta có ở đây là phần trên cùng của mạch hơi nước. Đây này, ở đây có một lỗ nhỏ, nhỏ hơn 1mm. Nhìn đi. Melekhin cúi xuống tự mình kiểm tra. Svyadov thì rất vui khi giữ được khoảng cách.
– Nó còn nhỏ hơn 1mm. Kẻ phá hoại đã tháo đầu nối và khoan một lỗ trên đó rồi đặt nó trở lại. Lỗ có kích thước bằng đầu đinh ghim có thể từ từ thấm ra một lượng nhỏ hơi nước. Bởi vì đầu nối nằm ngược với mặt bích, hơi nước không bốc lên được. Nhìn xem! Thật hoàn hảo! Hơi nước sẽ không chạy lên được, chỉ có thể theo áp suất, chảy theo hướng sợi chỉ, cuối cùng thoát ra từ vòi phun. Một cái kim châm như vậy…
– lỗ cỡ điểm đủ để làm cho khoang này bị nhiễm phóng xạ. Melekhin ngẩng đầu lên.
– Người này rất thông minh, hắn toàn toàn nắm rõ công dụng của hệ thống làm mát. Trước đây, chúng ta dùng phương pháp giảm công suất để kiểm tra rò rỉ. Do áp suất dư trong mạch không đủ nên hơi nước không thể lưu thông xuống các sợi chỉ, vì vậy chúng ta không thể tìm thấy chỗ rò rỉ. Áp suất vừa đủ ở công suất thường khi lò phản ứng hoạt động ở mức trung bình, nhưng nếu trước đó chúng ta sử dụng công suất tối đa, ai có thể nói điều gì có thể đã xảy ra? Melekhin ngưỡng mộ lắc đầu liên tục.
– Anh chàng này rất, rất thông minh. Ồ, tôi thực sự muốn gặp người đàn ông thông minh này, và mang theo một cặp kìm thép lớn khi gặp mặt… Giọng Mele Khi hạ xuống thì thầm.
– …và tôi sẽ bóp nát quả bóng của hắn! Hãy lấy cho tôi một bộ hàn điện nhỏ, đồng chí. Tôi có thể tự sửa cái này trong vài phút nữa.
Sỹ quan cấp một Melekhin thực sự rất tốt như lời đồn. Ông không để ai lại gần khi đang làm việc. Đây là khoảng làm việc của ông, trách nhiệm của ông. Shadow thì vui mừng nhường chỗ. Melekin chèn một quả bóng thép nhỏ vào lỗ rò rỉ và mài phẳng nó bằng một dụng cụ của thợ kim hoàn để bảo vệ sợi chỉ. Sau đó, chải keo cao su lên các sợi chỉ, và cuối cùng đặt mối nối về vị trí ban đầu. Theo đồng hồ của Svyadov thì cả quá trình sửa chữa hết 28 phút. Đúng như anh đã nghe nói ở Leningrad, Melekhin là kỹ sư tàu ngầm giỏi nhất…
– Kiểm tra thủy tĩnh, 8kg. anh ra lệnh cho viên kỹ sư phó. Lò phản ứng tái khởi động, tăng áp suất bình thường sau 5 phút. Melekhin tiếp tục đo dưới ống dòng chất lỏng trong 10 phút – không phát hiện bất thường, ngay cả khi thiết lập lên số hai. Rồi ông tiến đến điện thoại để nói rằng chỗ rò rỉ đã được sửa.
Melekhin yêu cầu lính dưới quyền quay lại cabin chứa dụng cụ và đặt tất cả vào vị trí.
– Giờ thì chậu đã biết cách sửa chữa, trung úy?
– Vâng thưa đồng chí. Có khả năng vụ rò rỉ phóng xạ này có thể lan đến tàu không?
– Có thể.
Svyadov lo lắng. Khoang lò phản ứng chả có gì ngoài những đường ống và khớp nối và kiểu phá hoại này sẽ không mất nhiều thời gian. Những thứ đó giống như quả bom hẹn giờ được chôn dưới hệ thống làm mát vậy. Điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó kích hoạt?
– Có lẽ cậu lo lắng quá nhiều đấy, đồng chí. Melekhin nói.
– Phải, tôi đã cân nhắc đến việc này. Khi chúng ta đến Cuba, tôi sẽ tiến hành kiểm tra tĩnh điện toàn diện để kiểm tra toàn bộ hệ thống, nhưng ngay lúc này thì đó không phải là ý kiến hay. Chúng ta sẽ tiếp tục tiến hành kiểm tra 2 giờ mỗi lần. Có thể có một ai đó trong số những thủy thủ của chúng ta là kẻ phá hoại. Nếu vậy thì tôi không thể để ai đó ở khoang này đủ lâu để tiến hành một vụ phá hoại khác. Cậu cần chú ý đám thủy thủ cẩn thận vào.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 01 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 02 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 03 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 04 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 05 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 06 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 07 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 08 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 09 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 10 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 11 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 12 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 13 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 14 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 15 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 16 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 17 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 18 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 19 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 20 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 21 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 22 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 23 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 24 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 25 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 26 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 27 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 28 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 29 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 30 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 31 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 32 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, chương 33 tại đây.
Đọc Cuộc săn lùng tàu tháng 10 đỏ, toàn tập tại đây.